Luận án  Nghiên cứu kết quả chẩn đoán và phẫu thuật sớm tổn thương khí phế quản do chấn thương Lưu Free

Luận án Nghiên cứu kết quả chẩn đoán và phẫu thuật sớm tổn thương khí phế quản do chấn thương

Danh mục: , Người đăng: Liên Kim Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: , Lượt xem: 26 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được sưu tầm từ nhiều nguồn và chia sẽ miễn phí với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ

1.1.1. Trên thế giới

Vào khoảng giữa thập niên 1500, Pare là người đầu tiên đã khâu nối hai trường hợp vết thương xuyên thấu KPQ, trong thời gian ông còn là một phẫu thuật viên trẻ trong quân đội Pháp, nhưng sau đó 2 bệnh nhân đó đã từ vong [30].

Năm 1848, Webb đã mô tả một trường hợp tổn thương khí phế quản đầu tiên của người đi bộ bị xe ngựa chẹt, mà bệnh nhân vẫn còn sống sót. Năm 1873 Seuvre phát hiện một trường hợp đã tử vong do tai nạn giao thông mà có rách phế quản chính [30], [62].

Năm 1927, Krinitzki đã báo cáo một trường hợp rách phế quản chính phải ở phụ nữ 30 tuổi do thùng rượu đề trúng ngực. Nhưng Krinitzki thấy không phải bất cứ trường hợp tổn thương khí phế quản nào cũng gây tử vong. Ông còn khẳng định vết rách khí phế quản có khả năng tự lành vết thương [30], [62].

Năm 1931, Nissen mô tả tổn thương sẹo hẹp phế quản chính ở vị trí bị rách và gây xẹp phổi mạn tính. Sau đó ông đã mổ cắt bỏ toàn bộ bên phổi xẹp [30], [62].

Năm 1945, Sanger thực hiện thành công khi khâu vết rách phế quản. Hai năm sau (1947) Kinsella và Johnsrud cũng đã khâu tạo hình thành công vết rách phế quản do chấn thương kín [30], [62].

Năm 1949, Griffith đã tiến hành cắt bỏ đoạn sẹo hẹp phế quản chính do chấn thương, và nối trực tiếp hai đầu phế quản để phục hồi lại chức năng phổi.

Năm 1957, Beskin cũng đã khâu thành công vết rách khí quản cổ [30], [61].

Theo Symbas đã báo cáo từ năm 1976-1982. Trong 17 bệnh nhân bị vết thương xuyên thấu KPQ tỷ lệ tử vong 6- 18%. Có một trường hợp khàn giọng do tổn thương dây thần kinh quặt ngược và 1 trường hợp phải mở khíquản ra da vĩnh viễn do khâu nối KPQ thất bại [30], [62].

Theo Edwards (1987), Flynn (1989), Symbas (1992) tỷ lệ tử vong của chấn thương KPQ từ 10-25% [30], [62].

Năm 1986 Gussack cùng cộng sự đã báo cáo trong nhóm bệnh nhân được nghiên cứu: có 92% cần phải xử trí cấp cứu đường thở (đặt nội khí quản, mờ khí quản…) ở những bệnh nhân chấn thương KPQ. Trong đó 73% được cứu sống khi đặt ống nội khí quản( NKQ) qua đường miệng và 3% đặt ống NKQ qua vết thương ở cổ [37], [62].

Năm 1998 Rossbach và Jonhson đã báo cáo trong 32 bệnh nhân chấn thương KPQ có 59% do vết thương xuyên thấu và 41% do chấn thương kín gây nên. Có 78% bệnh nhân cần phải thở máy hỗ trợ sau mổ, trong đó thời gian thờ máy từ 1-3 ngày đối với vết thương xuyên thấu và từ 3-9 ngày với chấn thương kín. Thời gian bệnh nhân nằm ở hậu phẫu trung bình 4 ngày với vết thương xuyên thấu và 9 ngày với chấn thương kín. một bệnh nhân ( 3%) có biến chứng hẹp miệng nối sau mổ. Tỷ lệ tử vong trong nhóm nghiên cứu này là 6% [61], [62], [63].

Tải tài liệu

1.

Luận án Nghiên cứu kết quả chẩn đoán và phẫu thuật sớm tổn thương khí phế quản do chấn thương

.zip
5.46 MB

Có thể bạn quan tâm