THÔNG TIN TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Tên đề tài: “Nghiên cứu nồng độ IL-6 CRP ở bệnh nhân thoái hóa khớp gối nguyên phát”
Mã số: 9720107; Chuyên ngành: Nội – Xương khớp
Nghiên cứu sinh: Nguyễn Thị Bích Ngọc
Người hướng dẫn:
1 PGS.TS. Nguyễn Vĩnh Ngọc
2 PGS.TS. Đặng Hồng Hoa
Cơ sở đào tạo: Đại học Y Hà nội
Những kết luận mới của luận án:
Nồng độ CRP không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nhóm nghiên cứu và nhóm chứng (4,20±3,88 mg/L so với 4,18±1,31 mg/L) với p > 0,05 trong khi đó thì nồng độ IL-6 ở tăng lên có ý nghĩa thống kê ở nhóm nghiên cứu (5,58±4,11 pg/mL) so với nhóm chứng (2,37±0,81 pg/m) (p <0,01). Đường cong ROC xác định giá trị cut off của IL-6 là 3,18 pg/mL với diện tích dưới đường cong ROC là 0,696 (p < 0,001). Khi đó độ nhậy là 45,6%; và độ đặc hiệu là 88,2%. Tỷ lệ bệnh nhân thoái hóa khớp gối có nồng độ IL-6 > 3,18 pg/mL (có tăng IL-6) là 55,0% trong đó nam là 69,6% cao hơn ở nữ là 52,4% với p > 0,05. Khi nghiên cứu đặc điểm nồng độ IL-6, CRP ở bệnh nhân thoái hóa khớp gối nguyên phát cho thấy các triệu chứng lâm là đau kiểu viêm, cứng khớp buổi sáng, lạo xạo xương, dấu hiệu bào gỗ; chỉ số VAS, Lequesne, WOMAC đều cao hơn ở nhóm bệnh nhân có tăng IL-6 so với nhóm bệnh nhân không tăng IL-6 (p<0,01-p<0,001). Về đặc điểm cận lâm sàng thì các dấu hiệu gồm gai xương, đặc xương dưới sụn ở nhóm bệnh nhân có tăng IL-6 cao hơn so với nhóm bệnh nhân không tăng IL-6. Tuổi, WOMAC và bề dày màng hoạt dịch yếu tố tiên lượng độc lập tình trạng tăng IL-6 huyết tương theo hồi quy logistic. Do vậy, nội dung của luận án đã cung cấp bằng chứng khoa học mô tả sự thay đổi của IL-6 và CRP huyết tương, có thể sử dụng trong chẩn đoán và theo dõi hiệu quả điều trị ở bệnh nhân thoái hóa khớp gối nguyên phát.