THÔNG TIN VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên đề tài : “Nghiên cứu sâu chính hại ngô lai và biện pháp phòng trừ ở một số tỉnh phía Bắc”.
Chuyên ngành: Bảo vệ thực vật
Mã số: 62.62.01.12
Họ và tên nghiên cứu sinh: Lại Tiến Dũng
Đơn vị công tác: Viện Bảo Vệ Thực Vật
Khóa đào tạo: 2011- 2015
Thầy hướng dẫn:
1. GS.TS. Phạm Văn Lầm
2. TS. Nguyễn Văn Liêm
Những đóng góp mới của luận án
– Luận án cập nhật các dẫn liệu mới về thành phần sâu hại, thiên địch trên giống ngô lai tại vùng Hà Nội và phụ cận. Trong đó, bổ sung 4 loài sâu hại (Cnaphalocrocis medinalis, Tettigoniella ferruginea, Thrips hawaiiensis và Tetranychus cinnabarinus), 8 loài thiên địch (gồm Brachythemis contaminata, Chlaenius bioculatus, Diplacodes trivialis, Ectomocoris atrox, Empusa sp., Euborellia sp., Labidura riparia và Polistes olivaceus) cho danh sách sâu hại và thiên địch trên đồng ngô ở nước ta.
– Bổ sung một số dẫn liệu khoa học mới về đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của sâu đục thân ngô châu Á (O. furnacalis), rệp muội ngô (R. maidis). Đặc biệt, đã cung cấp dẫn liệu mới về khởi điểm phát dục, số lứa/năm, diễn biến mật độ và yếu tố ảnh hưởng đến sâu đục thân ngô châu Á ở vùng nghiên cứu; bổ sung dẫn liệu bảng sống của rệp muội ngô nuôi trên ngô lai và ngô tẻ bán răng ngựa. Trong đó:
+ Với thức ăn là giống ngô nếp lai MX4 ở nhiệt độ, ẩm độ thay đổi hay cố định, sâu non của sâu đục thân ngô châu Á có 5 tuổi. Thời gian phát triển các pha (nhất là sâu non) rất biến động phụ thuộc vào nhiệt độ, ẩm độ. Thời gian vòng đời kéo dài từ 26,75 (ở nhiệt độ 24,4-35oC; 50-80% ẩm độ) đến 45,4 ngày (ở nhiệt độ 25oC, 80% ẩm độ). Một trưởng thành cái đẻ được từ 137,7 trứng (trưởng thành ăn nước lã) đến 498,0-624,0 trứng (trưởng thành ăn mật ong). Trưởng thành đực có tuổi thọ ngắn hơn trưởng thành cái, kéo dài từ 4,0-6,6 ngày (trưởng thành ăn nước lã) đến 11,6-13,7 ngày (trưởng thành ăn mật ong). Khởi điểm phát dục là 14,27oC. Sâu non tuổi 5 có thể đình dục khi mùa đông có nhiệt độ thấp. Theo lý thuyết, sâu đục thân ngô châu Á có thể hoàn thành 7 thế hệ liên tục trong 1 năm tại Hà nội và phụ cận.
+ Trong phòng thí nghiệm (nhiệt độ 26,0-29,3oC; 76-79% ẩm độ), rệp muội ngô ở pha rệp non có 4 tuổi, thời gian vòng đời từ 6,60 ngày (trên ngô nếp lai AG500) đến 7,93 ngày (trên ngô tẻ bán răng ngựa). Một trưởng thành không cánh đẻ được 28,6 rệp non (trên ngô tẻ bán răng ngựa) đến 35,87 rệp non (trên ngô nếp lai AG500). Ở nhiệt độ 25oC và 75% ẩm độ, hệ số nhân của một thế hệ (Ro), tỷ lệ tăng tự nhiên (r) và giới hạn tăng tự nhiên (λ) phụ thuộc vào giống ngô, tương ứng là 30,65; 0,2413; 1,05 khi sống trên ngô tẻ bán răng ngựa và đạt cao hơn khi sống trên ngô nếp lai AG500 (tương ứng là 42,73; 0,2634; 1,06). Giống ngô lai tạo thuận lợi hơn cho rệp muội ngô sinh trưởng và phát triển.
+ Trên ngô lai ở vùng Hà Nội và phụ cận, sâu đục thân ngô châu Á phát sinh quanh năm, hoàn thành được 5-6 lứa (có thể có lứa 7) phụ thuộc vào nhiệt độ, ẩm độ. Sâu đục thân ngô châu Á xâm nhập đồng ngô từ khi có 3-5 lá, đạt đỉnh cao mật độ ở giai đoạn chín sáp trên ngô vụ xuân, vụ hè và ở giai đoạn trỗ cờ phun râu trên ngô vụ đông. Hàng năm, sâu đục thân ngô châu Á hình thành 3 đỉnh cao mật độ trùng với giai đoạn trỗ cờ, phun râu ở các vụ ngô chính vào tháng 5, tháng 8 và tháng 11 (có năm không có). Thời tiết, địa hình, hệ thống canh tác cây ngô, mùa vụ, phân đạm, mật độ trồng ngô và thiên địch đều ảnh hưởng đến số lượng sâu đục thân ngô châu Á.
+ Rệp muội ngô phát sinh quanh năm, mật độ gia tăng từ tháng 3, đạt đỉnh cao vào tháng 5 trên ngô vụ xuân hè, suy giảm trong các tháng 6-8 (do nhiệt độ cao, mưa nhiều), gia tăng lại từ tháng 9 và đạt đỉnh cao thứ hai vào tháng 11 trên ngô vụ đông.