THÔNG TIN TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Tên đề tài:“ Nghiên cứu sự biến đổi và giá trị nồng độ LH trong tiên lượng điều trị kích thích phóng noãn bệnh nhân vô sinh do buồng trứng đa nang bằng clomiphene citrate đơn thuần và kết hợp với FSH”
Nghiên cứu sinh: Trần Thị Thu Hạnh
Chuyên ngành: Sản Phụ Khoa
Người hướng dẫn: PGS-TS Nguyễn Quốc Tuấn
Mã số: 62720131 BM Phụ sản – Trường Đại học Y Hà nội
Những kết luận mới của luận án:
Nồng độ LH trung bình ở bệnh nhân vô sinh có BTĐN là: 14,48 ± 5,32 và nồng độ LH ≥ 10 chiếm 81,4%. Nồng độ LH trung bình cao hơn rất nhiều nghiên cứu của các nước thuộc chủng tộc khác nhưng tương đương nghiên cứu của Việt nam và Châu Á.
Nồng độ LH trung bình của nhóm bệnh nhân có hình ảnh siêu âm buồng trứng đa nang (13,78 ± 5,76) thấp hơn nồng độ LH trung bình của nhóm có hình ảnh siêu âm buồng trứng bình thường (15,45 ± 4,5).
Có mối liên quan tỷ lệ nghịch giữa nồng độ LH và cân nặng:
LH = 22,83-0,167 x cân nặng (kg)
R = 0,223 R2 = 0,050
Có sự dậy thì muộn ở các bệnh nhân BTĐN không đáp ứng với CC, trung bình tuổi bắt đầu có kinh là : 14,51 ± 1,75 (tuổi)
Bệnh nhân BTĐN không đáp ứng CC có chỉ số BMI trung bình bình thường
Phân tích hồi qui đơn biến nhận thấy có mối quan hệ tuyến có ý nghĩa thống kê giữa nồng độ LH và nồng độ FSH, oestrogen được biểu diễn theo các phương trình sau: [LH] = 0,09 x [oestrogen] + 10,06 R2=0,094
[LH] = 1,35 x [FSH] +6,31 R2=0,148
Có mối liên quan tuyến tính giữa nồng độ LH và xác suất không đáp ứng điều trị qua phương trình sau:
Ln() = −0,881 + 0,017 x LH P 1-p e-0,881+0,017xLH không lẻ = e −0,881+0,017xLH
Có sự giảm nồng độ LH một cách có ý nghĩa thống kê khi bệnh nhân có đáp ứng với điều trị kích thích phóng noãn (có phóng noãn).
Ngược lại, nếu không đáp ứng điều trị thì nồng độ LH hầu như không thay đổi trước và sau điều trị.