TRANG THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN
Tên luận án: Nghiên cứu sử dụng xơ trung tính (NDF-Neutral Detergent Fibre) trong khẩu phần của bò lai hướng thịt (Black Angus, Charolais và Wagyu x lai Zebu).
Chuyên ngành: Chăn nuôi Mã ngành: 62 62 01 05
Họ tên nghiên cứu sinh: NGUYỄN BÌNH TRƯỜNG
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Văn Thu
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Cần Thơ
1. Tóm tắt nội dung luận án
Mục tiêu của luận án này nhằm tìm ra mức xơ trung tính (NDF) phù hợp trong khẩu phần ăn của bò thịt để nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn và hiệu quả kinh tế. Luận án được thực hiện thông qua 4 nội dung nghiên cứu gồm (1) khảo sát hàm lượng xơ trung tính trong khẩu phần ảnh hưởng đến năng suất nuôi dưỡng bò thịt tại tỉnh An Giang, (2) nghiên cứu vai trò, nguồn và mức NDF trong khẩu phần ảnh hưởng đến tiêu hóa và sinh khí mêtan trong điều kiện in vitro, (3) ảnh hưởng của mức NDF đến tiêu thụ, tiêu hóa, môi trường dạ cỏ và tích lũy nitơ trên 3 giống bò lai Black Angus, Charolais và Wagyu và (4) đánh giá sự tăng khối lượng, tiêu tốn thức ăn và hiệu quả kinh tế của 3 giống bò lai Black Angus, Charolais và Wagyu với mức NDF trong khẩu phần thích hợp là 55%. Bò trong các thí nghiệm của luận án là bò lai được sinh ra từ bò cái lai Zebu được phối tinh bò chuyên thịt Black Angus, Charolais và Wagyu.
Kết quả NC 1 chỉ ra rằng, hàm lượng NDF trong khẩu phần từ 49,7 đến 57,9% tương ứng với bò nuôi ở nông hộ tỉnh An Giang từ 6 đến 36 tháng tuổi có sự hạn chế về khối lượng trong sinh trưởng. Ở NC 2, sự thay đổi cấu trúc NDF của thức ăn thô có tác động đến tiêu hoá vật chất khô và dưỡng chất ở gia súc nhại lại. Trong điều kiện in vitro của nghiên cứu đã cho thấy carbohydrate hòa tan hoặc chiết chất không đạm có ảnh hưởng nhiều hơn là NDF từ các nguồn thức ăn thô đến khí tổng số và sự sản sinh khí CH4. Khi tăng mức NDF từ 35 lên 65% trong hỗn hợp ủ làm tỷ lệ tiêu hóa chất hữu cơ giảm dần ở các nghiệm thức (P<0,05), dù vậy ở mức NDF trong khẩu phần từ 47 đến 59% có triển vọng cho các nghiên cứu tiếp theo trong điều kiện in vivo. Kết quả của NC 3 cho thấy, khi tăng dần tỷ lệ NDF trong khẩu phần từ 47 đến 59%, tỷ lệ tiêu hóa chất khô và chất hữu cơ có sự giảm dần (P<0,05), tuy nhiên giữa nghiệm thức NDF47 và NDF55 thì không có sự khác biệt (P>0,05). Ở trước và sau 3 giờ cho ăn pH, N-NH3 và axit béo bay hơi tổng số của dịch dạ cỏ không có sự khác biệt (P>0,05) giữa các nghiệm thức. Sự tích lũy nitơ và tăng khối lượng bò lai có xu hướng giảm dần khi tăng mức NDF trong khẩu phần (P>0,05) và ở nghiệm thức NDF55 có triển vọng cho sự nghiên cứu ứng dụng. Trong NC 4 kết quả cho thấy, với mức NDF 55% trong khẩu phần thì bò lai Charolais có sự tiêu thụ thức ăn, tăng khối lượng, hệ số chuyển hóa thức ăn và hiệu quả kinh tế có xu thế tốt hơn so với bò lai Black Angus và lai Wagyu. Do vậy, khuyến cáo của luận án là mức 55% xơ trung tính (NDF) trong khẩu phần phù hợp với chăn nuôi bò lai hướng thịt.
2. Những kết quả mới của luận án
Xác định và đánh giá được mức NDF trong khẩu phần ảnh hưởng đến năng suất của đàn bò lai Zebu nuôi thịt trong nông hộ tại tỉnh An Giang.
Sự thay đổi cấu trúc NDF của thực vật có tác động tới tiêu hoá dưỡng chất ở gia súc nhai lại và sự khác nhau về nguồn NDF ảnh hưởng đến khí thải CH4 chịu tác động của NFC hoặc NFE lớn hơn so với NDF, ADF, CP và EE theo thứ tự.
Tăng mức NDF từ 35 lên 65% đã làm giảm dần tỷ lệ tiêu hóa OM và NDF trong điều kiện in vitro.
Trong khẩu phần nuôi bò lai hướng thịt có mức 55% NDF phù hợp yêu cầu về tiêu hóa dưỡng chất, ổn định môi trường dạ cỏ, tăng khối lượng và hiệu quả kinh tế.
3. Các ứng dụng/khả năng ứng dụng trong thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham khảo về cấu trúc và mức NDF hợp lý trong khẩu phần không những ảnh hưởng đến khả năng tiêu hóa dưỡng chất thức ăn mà còn là nguồn cung cấp năng lượng cho bò thịt. Sử dụng các nguồn thức ăn thô sẵn có tại địa phương với mức NDF thích hợp trong khẩu phần để đảm bảo năng suất bò lai hướng thịt và tăng thu nhập của người chăn nuôi.