TRANG THÔNG TIN NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên tác giả: Lê Minh Trâm
Tên luận án: Nghiên cứu tác động của logistics đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
Ngành khoa học của luận án: Kinh tế quốc tế. Mã số: 9310106
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Thị Ngọc Quyên
Tên cơ sở đào tạo: Trường Đại học Ngoại Thương
Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận:
Thứ nhất, luận án đã tổng hợp và phân tích nhiều nghiên cứu đã công bố ở trong và ngoài nước liên quan đến tác động của logistics đối với xuất khẩu hàng hóa ở cấp độ quốc gia, ngành và doanh nghiệp. Từ đó, nghiên cứu sinh xác định hướng nghiên cứu phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung nghiên cứu, thông qua đó đưa ra những góc nhìn mới, góp phần giải quyết một phần khoảng trống nghiên cứu.
Thứ hai, luận án đã hệ thống hóa và góp phần làm rõ một số cơ sở lý luận cơ bản về xuất khẩu, logistics và tác động của logistics đối với xuất khẩu hàng hóa của một quốc gia. Trong đó, đã trình bày chỉ tiết những nội dung liên quan đến logistics, bao gồm khái niệm, thành phần cấu tạo và tiêu chí đánh giá hệ thống logistics quốc gia.
Thứ ba, luận án đã xây dựng được khung phân tích định tính và định lượng để đánh giá tác động của logistics đối với xuất khẩu hàng hóa của một quốc gia. Bằng cách xác định các yếu tố của logistics ảnh hưởng đến xuất khẩu và lượng hóa mức độ tác động của các yếu tố đó thông qua các mô hình nghiên cứu được đề xuất dựa trên mô hình trọng lực trong thương mại quốc tế, luận án đã làm nổi bật tác động đa chiều của logistics đối với xuất khẩu hàng hóa trên các khía cạnh về thời gian, chi phí, năng lực vận chuyển, khả năng mở rộng thị trường và đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu.
Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án:
Thứ nhất, vận dụng khung phân tích định tính vào trường hợp thực tế của Việt Nam để chứng minh những cải thiện của hệ thống logistics quốc gia Việt Nam trong giai đoạn từ 2007 đến nay đã mang lại những ảnh hưởng tích cực đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. Tuy nhiên, luận án cũng phân tích những hạn chế bất cập của hệ thống logistics quốc gia Việt Nam như cơ sở hạ tầng logistics yếu kém, đầu tư thiếu đồng bộ, đặc biệt trong lĩnh vực vận tải đường sắt và thủy nội địa, sự thiếu kết nối giao thông vận tải; năng lực và chất lượng dịch vụ của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics (LSP – Logistics Service Provider) Việt Nam còn hạn chế do chất lượng nguồn nhân lực logistics yếu kém, tài chính eo hẹp, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động logistics chưa cao; chi phí logistics cao cũng như sự thiếu hoàn thiện, đồng bộ về cơ sở pháp lý liên quan đến logistics cũng như những hạn chế trong cải cách thủ tục hải quan và các thủ tục hành chính. Kết quả phân tích định tính khẳng định những bất cập đó đã và đang là những nguyên nhân gây cản trở xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Thứ hai, vận dụng khung phân tích định lượng vào trường hợp thực tế của Việt Nam, kết quả hồi quy cho thấy tác động thuận chiều của chỉ số về logistics của Ngân hàng thế giới – LPI (Logistics Performance Index) đối với kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam với mức độ tác động mang giá trị dương (4.576) và có ý nghĩa thống kê ở mức cao nhất (1%). Ngoài ra, tất cả các chỉ số thành phần của LPI cũng có tác động thuận chiều đối với kim ngạch xuất khẩu với mức độ tác động giảm dần như sau: LPI_Vận chuyển quốc tế (6.129), LPI_Cơ sở pháp lý về logistics (3.192), LPI_Năng lực và chất lượng dịch vụ logistics (2.429), LPI_Cơ sở hạ tầng logistics (2.3), LPI_Giao hàng đúng hạn (2.015), LPI_Theo dõi và truy xuất (1.643). Do đó, kết quả nghiên cứu định lượng khẳng định sự phù hợp của kết quả phân tích định tính, đó là những cải thiện của các yếu tố cấu thành hệ thống logistics quốc gia Việt Nam có ảnh hưởng thúc đẩy và ngược lại những hạn chế bất cập có tác động cản trở đối với xuất khẩu. Đồng thời, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy chỉ số LPI của nước đối tác và các thành phần của nó cũng có tác động thuận chiều đối với kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhưng có mức độ tác động thấp hơn nhiều so với chỉ số LPI Việt Nam.
Thứ ba, từ kết quả phân tích định tính về thực trạng và ước lượng mức độ tác động của các yếu tố của logistics, luận án đã tiến hành đánh giá các kết quả quan trọng phản ánh tác động của logistics đối với xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam từ 2007 đến 2023 trên các khía cạnh khác nhau. Luận án đã chứng minh sự phát triển của hệ thống logistics quốc gia có tác động thúc đẩy của logistics đối với xuất khẩu hàng hóa thể hiện trên các khía cạnh như giảm thời gian và chi phí liên quan đến việc thông quan, gia tăng khả năng cạnh tranh và tạo điều kiện cho ngày càng nhiều các sản phẩm của Việt Nam có thể tiếp cận tới nhiều thị trường trên thế giới cũng như gia tăng năng lực vận chuyển hàng xuất khẩu. Đồng thời, luận án cũng chứng minh những bất cập của hệ thống logistics quốc gia Việt Nam có tác động gây cản trở xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam phản ánh thông qua các khía cạnh như làm gia tăng thời gian, chi phí, tỷ lệ giao hàng không thành công cũng như hạn chế về năng lực vận chuyển hàng xuất khẩu, về năng lực mở rộng thị trường, về đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu.
Thứ tư, trên cơ sở các kết quả nghiên cứu nêu trên, luận án đề xuất hàm ý chính sách về phát triển logistics nhằm hỗ trợ thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời đưa ra các khuyến nghị đối với các bên liên quan. Thứ nhất, Việt Nam cần phải ưu tiên đặt lên hàng đầu thực thi các chính sách và giải pháp nhằm cải thiện khả năng thu xếp vận chuyển quốc tế với giá cước cạnh tranh, trong đó vấn đề tối ưu hóa chi phí logistics cần được đặt lên hàng đầu. Thứ hai, hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp luật về logistics nhằm tạo môi trường pháp lý công bằng, minh bạch và thuận lợi cho phát triển logistics hỗ trợ thúc đẩy xuất khẩu. Thứ ba, cần tập trung vào các giải pháp nâng cao năng lực và chất lượng dịch vụ logistics, trong đó chất lượng nguồn nhân lực logistics cần phải được quan tâm nhiều nhất từ cả phía cơ quan quản lý của Chính phủ, Hiệp hội phát triển nguồn nhân lực logistics Việt Nam, các trường đại học, các trung tâm đào tạo và chính các doanh nghiệp logistics bởi thực trạng chất lượng non kém của nguồn nhân lực logistics hiện nay là một trong những nguyên nhân lớn gây ra hệ lụy đối với năng lực và chất lượng dịch vụ logistics bị hạn chế. Thứ tư, các chính sách về đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng logistics, trong đó ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng vận tải đường sắt và thủy nội địa nhằm giảm áp lực cho vận tải đường bộ; tăng cường khả năng kết nối giao thông cũng như các chính sách đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động logistics. Thứ năm, các chính sách về tăng cường khả năng giao hàng đúng hạn và nâng cao khả năng theo dõi và truy xuất các lô hàng xuất khẩu.