MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Sự phát triển của công nghiệp đã làm cho chất lượng cuộc sống của con người ngày càng được nâng cao, nhưng mặt trái của nó đó là những thảm họa môi trường ngày càng nhiều hơn. Cùng với đó, việc lạm dụng hóa chất độc hại trong sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và sự kháng thuốc, biến dị của vi khuẩn, virus được xem là những nguyên nhân gây ra các chứng bệnh nguy hiểm cho con người như HIV/AIDS, tim mạch, ung thư, tiểu đường, viêm đường hô hấp cấp SARS, hay gần đây là các loại cúm do virus
Trước những thay đổi tiêu cực ấy, một nhiệm vụ cấp thiết được đặt ra cho các nhà khoa học là phải tìm ra các loại thuốc chữa bệnh mới có tác dụng chọn lọc, hiệu quả cao, giá thành rẻ hơn trong điều trị các bệnh hiểm nghèo. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã nhận ra rằng phỏng theo tự nhiên là xu hướng tất yếu để con người có thể tồn tại và thích nghi tốt nhất với tự nhiên. Và con đường hiệu quả nhất là nghiên cứu tìm ra các chất có cấu trúc mới, có hoạt tính tiềm năng từ các hợp chất thiên nhiên để có thể phát triển thành thuốc chữa bệnh cho con người, gia súc và cây trồng. Nguyên nhân là vì trải qua hàng triệu năm tiến hóa, các hợp chất thiên nhiên có khả năng tương thích dễ dàng, tương đối phù hợp với cơ thể sống, ít độc hơn và đặc biệt là thân thiện với môi trường.
Việt Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa điển hình nên có thảm thực vật vô cùng đa dạng và phong phú với khoảng 12.000 loài, trong đó có 309 họ gồm 4.000 loài dùng để làm thuốc. Đây là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá. Mặc dù đã có rất nhiều loại thảo dược được sử dụng để làm thuốc chữa bệnh cho người, gia súc và cây trồng, tuy nhiên hiệu quả kinh tế vẫn còn hạn chế bởi việc khai thác và sử dụng hầu như vẫn dựa vào kinh nghiệm dân gian.
Dựa trên các cơ sở khoa học đó chúng tôi chọn đề tài “Nghiên cứu thành phần hóa học, hoạt tính sinh học của loài thông nàng (Dacrycarpus imbricatus) và Pơ mu (Fokienia hodginsii)”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của luận án
Nghiên cứu thành phần hóa học của loài thông nàng (Dacrycarpus imbricatus (Blume) de Laub) và loài Pơ mu (Fokienia hodginsii (Dunn) A. Henry et Thomas).
Thử nghiệm hoạt tính sinh học các chất sạch tách được.
3. Các nội dung nghiên cứu chính của luận án
Nghiên cứu phân lập các chất từ các cao chiết của hai loài thông nàng và loài Pơ mu bằng phương pháp sắc kí cột.
Xác định cấu trúc hóa học các hợp chất phân lập được bằng các phương pháp phổ IR, MS, 1D-NMR, 2D-NMR.
– Thử nghiệm và đánh giá hoạt tính sinh học của một số hợp chất phân lập được.
4. Những đóng góp mới của luận án
Đây là lần đầu tiên hai loài lá kim là thông nàng (Dacrycarpus imbricatus) và Pơ mu (Fokienia hodginsii) của Việt Nam được nghiên cứu về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học.
*Từ loài thông nàng (Dacrycarpus imbricatus)
– 13 hợp chất được phân lập và xác định cấu trúc hóa học, trong đó có 01 hợp chất mới là cassipouryl hexadecanoat (79) và 10 chất lần đầu tiên tìm thấy trong chi Dacrycarpus.
Đây là các nghiên cứu mới về hoạt tính gây độc trên các dòng tế bào ung thư của các chất tách được từ hai loài này. Trong đó, hợp chất 84 (acid lambetic) ức chế dòng tế bào ung thư biểu mô (KB) và ung thư gan (HepG2) với giá trị IC50 tương ứng là 165,93 µM và 110,88 μΜ.
* Từ loài Pơ mu (Fokienia hodginsii):
– Có 7 hợp chất lần đầu tiên được tìm thấy trong chi Fokienia trong số các chất được phân lập và xác định cấu trúc hóa học từ loài Pơ mu.
– 6 hợp chất được thử nghiệm hoạt tính gây độc tế bào trên 3 dòng tế bào ung thư biểu mô (KB) ung thư gan (HepG2), ung thư tủy xương cấp (OIC-AML), có hai hợp chất 92 (totarolone) và 93 (3/ẞ-hydroxytotarol) có tác dụng làm chết tế bào ung thư tủy xương cấp theo chương trình (apoptosis) ở nồng độ 20 µg/ml.
5. Bố cục của luận án
Luận án gồm 132 trang với 3 chương, 9 bảng, 75 hình, 106 tài liệu tham khảo và phụ lục gồm 81 trang hình phổ.
Luận án được bố cục như sau: Mở đầu: 2 trang, Tổng quan: 25 trang, Thực nghiệm: 26 trang, Kết quả và thảo luận: 65 trang, Kết luận và kiến nghị: 2 trang, Danh mục công trình liên quan đến luận án: 1 trang, Tài liệu tham khảo: 12 trang.