Luận án Nghiên cứu thành phần hóa học, hoạt tính sinh học và đa dạnh nguồn gen di truyền của một số loài lá kim ở Tây Nguyên, Việt Nam Lưu

Luận án Nghiên cứu thành phần hóa học, hoạt tính sinh học và đa dạnh nguồn gen di truyền của một số loài lá kim ở Tây Nguyên, Việt Nam

Danh mục: , Người đăng: Liên Kim Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt, Tiếng Anh Định dạng: , Lượt xem: 14 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được chúng tôi sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN

1.1. Tổng quan về 3 loài lá kim nghiên cứu

1.1.1. Đặc điểm thực vật và tình trạng bảo tồn.

Các loài lá kim thuộc lớp Thông (Pinopsida), trong ngành Thông (Pinophyta). Trên thế giới cho đến nay đã thống kê được khoảng 630 loài thuộc 68 chi và 8 họ [1]. Chúng rất đa dạng về hình thái, kích thước và các đặc tính sinh thái (cây thân bò, bụi nhỏ, cây gỗ nhỏ hoặc cây gỗ lớn hay rất lớn). Điển hình loài gỗ khổng lồ như Cụ Tùng (Sequoia gigantea) ở vùng núi Sierra Nevada (Hoa Kỳ) có chiều cao tới 142 m với tuổi thọ đạt 3000 – 4000 năm, hay loài Ngân Hạnh (Ginkgo biloba) ở Sơn Đông, Trung Quốc cao tới 25 m với chu vi thân đạt tới 16 m. Nhưng trong đó cũng có loài lại được trồng làm cây cảnh như Thanh tùng (Juniprus chinensis), Tùng xà (Juniperus squamata), Thông la hán (Podocarpus chinensis),… ở Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam [2].

Tại Việt Nam, đã phát hiện và xác định được khoảng 34 loài thuộc 5 họ trong lớp Thông (Pinopsida). Trong số đó 15 loài được tìm thấy ở khu vực Tây Nguyên (gồm các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lăk, Đắc Nông và Lâm Đồng) đó là: Đinh tùng (Cephalotaxus mannii), Pơ mu, Bách xanh núi đất, Thông nước, Du sam núi đất, Thông đà lạt, Thông ba lá, Thông hai lá, Thông lá dẹt, Thông lông gà, Hoàng đàn giả (Dacrydium elatum), Kim giao núi đất (Nageia wallichiana), Thông tre lá dài, Dẻ tùng nam và Thông đỏ nam. Các loài này đều có giá trị kinh tế và ứng dụng trong y học [3] [4].

Đỉnh tùng: Tên khoa học Cephalotaxus mannii Hook.f (Taxaceae)

Năm 1995 tác giả K. E. Tripp đã xác định chỉ Cephalotaxus có mười loài [5]. Đến năm 1999 các tác giả L. Fu, N. Li và R. R. Mill đã xác định thêm một loài là C. latifolia Cheng and Fu [6]. Như vậy hiện nay trên thế giới chi Cephalotaxus được công nhận gồm 11 loài. Ở Việt Nam có 2 loài là C. mannii và C. oliveri [7].

Mô tả hình thái: Cây gỗ nhỏ, thường xanh, cây trưởng thành có thể cao từ 10 – 15 m. Thân tròn, vỏ trơn nhẵn (vỏ non có màu đỏ, vỏ già bong thành mảng màu trắng). Cành mảnh, mọc đối và xòe ngang. Lá mọc xoắn ốc, xếp thành 2 dãy, hình dải, dài 2 – 4cm, rộng 0,2 – 0,4cm, thẳng hay hơi cong ở gần đầu, ở mặt dưới có 2 dải lỗ khí màu trắng. Mùa ra nón tháng 3 – 5, mùa quả chín tháng 8 – 10 năm sau. Đỉnh tùng tái sinh bằng hạt tốt, mọc rải rác trên các sườn và đỉnh núi đất và núi đá vôi với đội cao từ 600 – 1400 m [7].

Phân bố: Trên thế giới Đỉnh tùng phân bố ở khu vực Nam và Đông Nam Á bao gồm: Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào, Bắc Myanmar, Bắc Thái Lan. Tại Việt Nam loài này được ghi nhận có ở Lào Cai, Hà Giang, Sơn La, Cao Bằng, Hòa Bình, Hà Nội (Ba Vì), Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Kon Tum, Gia Lai, Lâm Đồng và Thanh Hóa [7].

Tải tài liệu

1.

Luận án Nghiên cứu thành phần hóa học, hoạt tính sinh học và đa dạnh nguồn gen di truyền của một số loài lá kim ở Tây Nguyên, Việt Nam

.zip
4.98 MB

Có thể bạn quan tâm