Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về các loài nghiên cứu
1.1.1. Thông đà lạt (Pinus dalatensis Ferré)
Thông đà lạt (Pinus dalatensis Ferré), tên đồng nghĩa: Pinus wallichiana A.B. Jacks. [2] thuộc họ Thông (Pinaceae). Đây là một loài thông năm lá gần đặc hữu của Việt Nam, cây phân bố chủ yếu ở Đà Lạt và một số vùng lân cận, ngoài ra một số ít được tìm thấy ở Quảng Nam, Quảng Bình và biên giới Việt-Lào. Cây mọc trong rừng rậm, trên núi trung bình, ở độ cao 1500-2000 m. Cây gỗ to, cao đến hơn 30 m và đường kính thân 0.6-0.8 m [2]. Gỗ không bị mối mọt, được sử dụng trong xây dựng, làm đồ gỗ gia dụng và mỹ nghệ. Đến nay, chưa có công bố nào ở Việt Nam cũng như trên thế giới về thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của loài này.
Hình 1.1. Hình chụp cây Thông đà lạt (1), tiêu bản cành mang lá và quả (2), quả (3)
(Tiêu bản số VNMN.B000005006 bảo tàng thiên nhiên Việt Nam, VAST)
1.1.2. Thông ba lá (Pinus kesiya Royle ex Gordon)
Thông ba lá (Pinus kesiya Royle ex Gordon; tên đồng nghĩa: Pinus langbianensis A. Chev., Pinus insularis var. khasyana (Griff.) Silba, Pinus yunnanensis Franch.) là một loài lá kim thuộc họ Thông (Pinaceae). Trên thế giới, cây phân bố ở Ấn Độ, Myanmar, Thái Lan, Lào, Việt Nam và Philippines. Ở Việt Nam, thông ba lá lần đầu được phát hiện ởcao nguyên Langbiang, đó là loài có diện tích lớn nhất trong số các loài thông ở Việt Nam, phân bố ở Hà Giang, Sơn La, Gia Lai, Kon Tum,… nhưng nhiều nhất (90% diện tích) là trên cao nguyên Langbiang. Lá cây hình kim, thường đính ba lá kim trên một đầu cành ngắn, thường có màu xanh ngọc, mỗi lá kim thường dài 20-25 cm. Đầu cành ngắn đính lá thường có độ dài 1.5 cm, đính cách vòng xoắn ốc trên cành lớn [3]. Cây thường được trồng để lấy gỗ phục vụ cho công nghiệp giấy, ngành xây dựng và mỹ nghệ. Đến nay, chỉ mới có vài công bố về thành phần hóa học và hoạt tính của tinh dầu từ loài này. Gần đây (năm 2013 và 2014), có một vài công bố nghiên cứu bước đầu về thành phần hóa học của loài này ở Trung Quốc [4, 5].
(Podocarpaceae). Ở Việt Nam, cây mọc rải rác trong rừng nguyên sinh các tỉnh Kon Tum, Gia Lai, ĐakLak, Lâm Đồng, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Kiên Giang, Nghệ An, Hà Tĩnh, Yên Bái, Tuyên Quang… và mọc ở độ cao 2300 m ở Vườn quốc gia Bì Đúp – Núi Bà thuộc tỉnh Lâm Đồng. Cây gỗ cao 20-25 m, đường kính có thể tới 50 cm, thân thẳng, tròn. Vỏ xám nâu, mỏng, nhẫn. Cành lá mọc vòng, màu xanh non hoặc xanh vàng. Lá mọc cách, hình mác dài, đầu nhọn dần, dài 7-15 cm, rộng 0.9-1.9 cm, đầu và đuôi nhọn, đầu mặt trên xanh bóng, mặt dưới xanh vàng. Gân chính nổi ở giữa rõ cả 2 mặt, mép lá cong xuống phía dưới. Cuống lá dài 0.3-0.5 cm, phía dưới có rãnh. Nón đực dạng bông không cuống, thường 3 bông mọc chụm ở nách lá gần đầu cành, khi non hình trứng, khi già hình trụ dài 2-5 cm. Nón cái mọc lẻ ở nách lá, chỉ có một lá noãn phát triển mang một noãn, các lá noãn khác hợp thành đế. Nón hình trứng dài 1.2-1.6 cm, đường kính 0.8-12 cm, đế mập to gần bằng nón, có cuống dài 0.5-1 cm. Có 2 lá bắc sớm rụng, dài 1,5 cm, rộng 1 cm. Hạt hình trứng, dài 1,2–1.6 cm, rộng 1.1 cm, dưới có đế mập, đường kính gần bằng đường kính hạt, quả màu tím [6].
1.2. Tình hình nghiên cứu về hóa học một số loài thuộc chi Pinus
Về thành phần hóa học thì hầu hết các loài lá kim đều có chứa tinh dầu. Bên cạnh đó, theo thống kê trên thế giới đến nay đã có trên 450 hợp chất được phân lập từ trên một trăm loài thuộc chi Pinus, bao gồm các hợp chất carbohydrate, cyclitol, acid béo, terpenoid, phổ biến nhất là diterpene có khung carbon rất đa dạng như: cembrane pimarane, labdane và abietane; triterpene khung seratane và lanostane, lignan, steroid, các phenol, flavonoid và flavonoid glycoside [7].