Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. Giới thiệu về loài ngọc cẩu (B. laxiflora Hemsl.)
1.1.1.
Chi Balanophora có khoảng 120 loài thuộc họ Balanophoraceae phân bố trên khắp thế giới. Nhiều loài trong số chúng phân bố ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở Châu Á, Châu Đại Dương và gần 20 loài được phân bố rộng rãi ở Tây Nam Trung Quốc [2, 3]. Những loài thuộc chi Balanophora thường sống ký sinh trên rễ cây lá rộng thường xanh, đặc biệt là trong họ Leguminosae, Ericaceae, Urticaceae, và Fagaceae [2,4-5].
Ở Việt Nam hiện có khoảng 6 loài thuộc chi Balanophora: B.laxiflora Hemsl, B.latisepala Tiegh, B.fungosa J.R. Foster & G. Foster, B.polyandra Griff, B. cucphuongensis, B.abbreviata trong đó loài B. cucphuongensis là loài đặc hữu chỉ có ở Khu Bảo tồn Thiên nhiên Quốc gia Cúc Phương [6-10].
Những nghiên cứu về thực vật các loài thuộc họ Balanophoraceae cho thấy trong chi Balanophora có thành phần hóa học rất đa dạng, bao gồm các hợp chất lignan, phenylpropanoid, tanin, flavonoid, terpenoid, acid amin… Chi Balanophora có rất nhiều loại tanin thủy phân (tanin pyrogallic), đặc biệt là chất ellagitannin. Thành phần cấu tạo đặc trưng của các tanin này là các dẫn xuất của acid cinamic và có thêm một dẫn xuất của acid phenylacrylic [caffeoyl, coumaroyl, feruloyl hoặc cinnamoyl), trong đó ở vị trí C-1 liên kết glucosid dưới dạng R-O-glycosidic (R: galloyl, caffeoyl và hexahydroxydiphenoyl (HHDP)], ở các vị trí C-3, C-4 hoặc C-6 liên kết theo kiểu ester R-CO-O-glycosidic [11]. Các hợp chất được tách ra từ chi Balanophora có hoạt tính chống oxy hóa [2, 5, 12], ức chế HIV [13], hạ đường huyết [14, 15], chống viêm, giảm đau [16, 17], kháng ung thư [18].
Các loài thuộc chi Balanophora được sử dụng trong Y học cổ truyền Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Nepan, Thái Lan, Việt Nam làm thuốc bổ sinh lý nam nữ, giải độc rượu, chữa bệnh trĩ, đau dạ dày, ho gà, bệnh lậu, giang mai…[5-10, 19, 21-22].
1.1.2. Loài ngọc cẩu (B. laxiflora)
1.1.2.1. Tên gọi
Tên khoa học: Balanophora laxiflora
Tên thông thường: ngọc cẩu, tỏa dương, củ gió đất, củ ngọt núi, hoa đất, cu chó, xà cô, nấm đất, đó đất hoa thưa, đương đài hoa thưa [6-10].
1.1.2.2. Đặc điểm thực vật loài ngọc cẩu (B. laxiflora Hemsl)
Ngọc cẩu là loại cây cỏ mập, trông như một cây nấm, sống ký sinh trên rễ cây lá rộng thường xanh, đặc biệt là trong họ Leguminosae, Ericaceae, Urticaceae, và Fagaceae, màu đỏ nâu sẫm, không diệp lục. Cấu tạo bởi một cán hoa lớn, trên mang hoa dày đặc, có mô bao bọc, màu tím, mùi hôi. Cán hoa nạc và mềm, dạng thay đổi, sần sùi, không có lá. Củ hình trứng, đường kính 2 – 2,5 cm, bề mặt sần sùi và có mụn hình sao nổi rõ. Thân ký sinh (là cuống cụm hoa) mang năm đến mười lá dạng vày ở phía gốc; phiến lá hình mũi mác, cỡ 2 – 2,5 x 1 – 1,5 cm [2-10].
Hoa đơn tính khác gốc, hợp thành nột cụm hoa dạng bông nạc. Hoa đực và hoa cái riêng. Cụm hoa đực hình trụ, gồm những hoa gần như không cuống, dài từ 10 – 15 cm, bao gồm sáu mảnh, trong đó hai mảnh giữa (đối diện nhau) lớn hơn và cụt đầu, các mảnh bên hình trái xoan tròn đầu, khối phấn bị ép ngang. Cụm hoa cái hình bầu dục thuôn, dài từ 2-3 cm không có bao hoa, mọc ở quanh chân của vảy bảo bệ. Vảy hình trứng lõm ở đỉnh, một vòi nhụy [2-10].