ĐÓNG GÓP KHOA HỌC CHÍNH MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên đề tài: “Nghiên cứu phẫu thuật nội soi cắt tụy tá tràng điều trị u quanh bóng Vater”
Mã số: 62720125 Chuyên ngành: Ngoại tiêu hóa
Nghiên cứu sinh: Trần Quế Sơn
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Nguyễn Tiến Quyết
2. GS.TS. Trần Bình Giang
Cơ sở đào tạo: Đại học Y Hà Nội
Tóm tắt những đóng góp khoa học chính mới của luận án:
1. Một số đóng góp mới về mặt khoa học, lý luận:
Nghiên cứu ứng dụng những tiến bộ của phẫu thuật ít xâm lấn trong điều trị u quanh bóng Vater. Kết quả nghiên cứu có giá trị khoa học và kinh nghiệm lâm sàng quý báu, đặc biệt đối với các cơ sở phẫu thuật lần đầu triển khai kỹ thuật phức tạp này.
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần hoàn thiện quy trình và kỹ thuật phẫu thuật nội soi cắt tụy tá tràng.
2. Những luận điểm mới rút ra từ kết quả nghiên cứu:
Phẫu thuật cắt tụy tá tràng hỗ trợ nội soi (LAPD) là phương pháp điều trị u ác tính ở bóng Vater (80%), đầu dưới ống mật chủ (13,3%) và u đầu tụy (6,7%). Kích thước khối u < 35 mm và không có dấu hiệu xâm lấn mạch máu là lựa chọn tốt nhất cho kỹ thuật này.
Các biến chứng chính bao gồm chảy máu (13,3%), vỡ động mạch mạc treo tràng trên (3,3%) và thủng tá tràng (3,3%). Lượng máu mất ước tính là 350ml. Đường rạch trung bình trên là 7,2 cm. 6 bệnh nhân (20%) phải chuyển sang mổ mở do chảy máu trong khi phẫu thuật và bóc tách khó khăn. Bốn bệnh nhân cần phẫu thuật lại (16,6%). Có hai bệnh nhân tử vong trong viện (8,3%). Thời gian nằm viện trung bình là 19,5 ngày (9 đến 64 ngày). Tỷ lệ mắc bệnh chung là 50%, bao gồm rò tụy 25%, rò mật (4,2%), chảy máu trong ổ bụng (4,2%), chảy máu đường ruột (4,2%), chậm làm rỗng dạ dày (8,3%).
Chất lượng cuộc sống (QLQ-C30) đạt mức xuất sắc và tốt (81%). Đường cong Kaplan-Meier về tỷ lệ sống còn dài hạn là 28,3 tháng. Thời gian sống còn của nhóm N0 dài hơn đáng kể so với nhóm N1 (35,9 so với 12,4 tháng). Có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ sống còn dài hạn giữa nhóm giai đoạn I-B, II-A và II-B (lần lượt là 35,6, 26,5 và 12,4 tháng).
Kết quả cho thấy LAPD là một kỹ thuật phức tạp, khó thực hiện, khả thi nhưng có tỷ lệ biến chứng và tỷ lệ mắc bệnh cao ngay cả với phẫu thuật viên chuyên môn. LAPD nên được sử dụng thận trọng và thực hiện tại các trung tâm phẫu thuật lớn.