TRANG THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN
Tên luận án: Nghiên cứu và ứng dụng xạ khuẩn trong phòng trị bệnh héo rũ do nấm Fusarium sp. trên khoai lang
Chuyên ngành: Bảo vệ thực vật
Mã ngành: : 62620112
Họ tên nghiên cứu sinh: Nguyễn Văn Tập
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Lê Minh Tường và TS. Nguyễn Đức Cương
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Cần Thơ
1. Tóm tắt nội dung luận án
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 3 năm 2016 đến tháng 10 năm 2018 với các kết quả đạt được như sau:
Thu thập và phân lập được 10 dòng nấm Fusarium spp. gây bệnh héo rũ hại khoai lang tại các xã thuộc huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long. Dựa vào đặc điểm hình thái và đặc điểm sinh học cho thấy cả 10 dòng nấm phân lập đều thuộc Fusarium oxysporum. Mặt khác, các dòng nấm đều có khả năng gây bệnh trên cây khoai lang với triệu chứng điển hình của bệnh héo rũ và dòng nâm Fo. BT10 thể hiện khả năng gây hại nặng nhất trong tổng số 10 dòng nấm phân lập. Bên cạnh đó, trình tự gen vùng ITS của dòng Fo.BT10 có mức độ tương đồng với loài Fusarium oxysporum là 100%.
Thu thập phân lập được 120 chủng xạ khuẩn từ đất trồng khoai lang ở các xã thuộc huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long. Khả năng đối kháng của các chủng xạ khuẩn đối với nấm Fusarium oxysporum gây bệnh héo rũ hại khoai lang được thực hiện trong điều kiện phòng thí nghiệm. Kết quả cho thấy, có 28 trong tổng số 120 chủng xạ khuẩn thể hiện khả năng đối kháng với nấm Fusarium oxysporum và 5 chủng TTr4; TL8; TTh15; TL10 và TĐ7 thể hiện khả năng đối kháng cao thông qua bán kính vòng vô khuẩn lần lượt là 7,4 mm; 6,6 mm; 4,2 mm; 6,4 mm và 6,2 mm và hiệu suất đối kháng lần lượt là 64,2%; 56,0%; 46,4%; 53,3% và 45,2% ở thời điểm 5 ngày sau khi bố trí thí nghiệm. Khả năng ức chế sự mọc mầm và sự hình thành bào tử nấm Fusarium oxysporum của 5 chúng xạ khuẩn (TTr4, TL8, TTh15, TL10 và TĐ7) được thực hiện trong điều kiện phòng thí nghiệm với 4 lần lặp lại. Kết quả cho thấy, chủng TTr4 thể hiện khả năng ức
chế sự mọc mầm và sự hình thành bào tử nấm cao với tỷ lệ bào tử mọc mầm thấp kéo dài đến thời điểm 24 giờ sau khi xử lý và mật số bào tử nấm hình thành thấp là 70,00 bào tử/ml ở thời điểm 7 ngày sau khi bố trí thí nghiệm. Ngoài ra, khả năng phân giải chitin của 5 chủng xạ khuẩn (TTr4, TL8, TTh15, TL10 và TĐ7) được thực hiện với 5 lần lặp lại. Kết quả cho thấy 3 chủng TTr4, TL8 và TTh15 thể hiện khả năng tiết ra enzyme phân giải chitin cao thông qua bán kính vòng phân giải lần lượt là 19,67 mm; 20,40 mm và 18,53 mm và hàm lượng enzyme chitinase tiết ra lần lượt là 107,80 IU/ml; 103,61 IU/ml và 55,44 IU/ml ở thời điểm 7 ngày sau khi bố trí thí nghiệm. Khả năng phân giải ẞ-glucan của 5 chủng xạ khuẩn trên cũng được thực hiện với 5 lần lặp lại. Kết quả cho thấy 3 chủng TTr4, TL8 và TTh15 có khả năng tiết ra phân giải ẞ-glucan cao thông qua bán kính vòng phân giải lân lượt là 15,80 mm; 12,80 mm và 11,13 mm và hàm lượng enzyme ẞ-glucanase tiêt ra lân lượt là 0,754 IU/ml; 0,678 IU/ml và 0,682 IU/ml ở thời điểm 14 ngày sau khi bố trí thí nghiệm.
Khả năng phòng trừ bệnh héo rũ trên khoai lang của 3 chủng xạ khuẩn (TTr4, TL8 và TTh15) được thực hiện trong điều kiện nhà lưới với 5 lần lặp lại.
Kết quả cho thấy 3 chủng xạ khuẩn thí nghiệm khi được xử lý kết hợp ở thời điểm 2 ngày trước và 2 ngày sau khi lây bệnh nhân tạo cho tỷ lệ bệnh thấp lần lượt là 25,0%; 48,0% và 48,0%; chỉ số bệnh thấp lần lượt là 21,5%; 44,0% và 41,0% và hiệu quả giảm bệnh cao lần lượt là 75,0%; 52,0% và 52,0% ở thời điểm 10 ngày sau khi lây bệnh nhân tạo.