NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Tên luận án: Nghiên cứu xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau biogas bằng công nghệ SBR sử dụng một số chủng vi khuẩn nitrit/nitrat hóa chọn lọc
Ngành: Kỹ thuật môi trường Mã số: 9 52 03 20
Họ và tên nghiên cứu sinh: Nguyễn Hữu Đồng
Khóa đào tạo: 2017-2021
Chức danh, học vị, họ và tên người hướng dẫn:
1. TS. Phan Đỗ Hùng
2. TS. Đinh Thị Thu Hằng
Cơ sở đào tạo: Học viện Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Nội dung: nêu ngắn gọn những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận, những luận điểm mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án
1. Đã phân lập, chọn lọc và định danh được bốn chủng vi khuẩn dị dưỡng có khả năng chuyển hóa amoni (Bacillus megaterium HT1, Bacillus licheniformis HT1, Bacillus subtilis HT1 và Pseudomonas aeruginosa HT1) và hai chủng vi khuẩn dị dưỡng có khả năng chuyển hóa nitrit (Lactobacillus fermentum HT2 và Pseudomonas stuzeri HT2) từ nước thải sau bể biogas của lò giết mổ và trang trại chăn nuôi lợn, với khả năng chuyển hóa tương ứng hoàn toàn amoni, nitrit ở hàm lượng cao (≤750 mg/L) sau 04-05 ngày nuôi cấy. Các chủng vi khuẩn này có thể sinh trưởng, chuyển hóa hiệu quả trong một số điều kiện môi trường bất lợi như: nghèo dinh dưỡng (môi trường khoáng), DO thấp (≥0,1 mg/L), độ muối cao (≤3%).
2. Đã xác định được tỉ lệ phối trộn hiệu quả của hai nhóm vi khuẩn chuyển hóa amoni và chuyển hóa nitrit tuyển chọn là 2:1 để loại bỏ đồng thời nitơ và chất hữu cơ trong nước thải chăn nuôi lợn sau biogas, trong đó, nhóm chuyển hóa amoni với tỉ lệ Bacillus megaterium HT1:Bacillus licheniformis HT1:Bacillus subtilis HT1 là 1:1:1; và nhóm chuyển hóa nitrit với tỉ lệ Lactobacillus fermentum HT2:Pseudomonas stuzeri HT2 là 1:1. Bước đầu đánh giá được hiệu quả xử lý COD và TN trong nước thải chăn nuôi lợn sau biogas bằng hệ SBR kết hợp bổ sung các chủng tuyển chọn theo tỷ lệ phối trộn hiệu quả (2:1) ở một số chế độ vận hành gồm: Thay đổi tỉ lệ thời gian sục khí – ngừng sục (100/100 phút; 130/70 phút và 160/40 phút) cho hiệu quả xử lý COD từ 68 – 85% và hiệu quả xử lý TN tốt nhất là từ 64 – 72%, ở tỷ lệ 130/70 phút, TN sau xử lý đạt Cột B của QCVN 62-MT:2016/BTNMT; Thay đổi tải trọng TN trong khoảng 0,15 – 0,30 kg-N/m3/ngày thì hiệu suất xử lý TN giảm trong khoảng 75 – 63%.