NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Đề tài luận án: Nhân tố ảnh hưởng đến khả năng hấp thụ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh quốc tế
Mã số: 9340101_QTE
Nghiên cứu sinh: Bùi Thị Lành
Mã NCS: NCS35.45QTE
Người hướng dẫn: PGS.TS. Tạ Văn Lợi,
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận
– Luận án đã làm rõ được nội hàm của khả năng hấp thụ (KNHT) vốn FDI và phân biệt rõ sự khác biệt giữa khả năng hấp thụ vốn và thu hút vốn FDI. Theo đó, khả năng hấp thụ vốn FDI được hiểu là khả năng của nước sở tại trong việc tiếp nhận nguồn vốn FDI, đồng hoá và triển khai được nguồn vốn này vào trong nền kinh tế nhằm mang lại lợi ích cho nước sở tại.
– Các thành phần của KNHT gồm KNHT dạng tiềm ẩn và KNHT dạng thực hiện. KNHT dạng tiềm ẩn chỉ khả năng quốc gia nước sở tại có thể xác nhận và tiếp nhận nguồn vốn FDI cần thiết cho nền kinh tế; KNHT dạng thực hiện là khả năng chuyển đổi nguồn vốn FDI đã được tiếp nhận trở thành nguồn vốn thực sự đi vào nền kinh tế và mang lại lợi ích cho chính bản thân nước sở tại.
– Luận án đã xác định chỉ tiêu đánh giá và yếu tố ảnh hưởng tới khả năng hấp thụ vốn FDI. Những nhân tố chính được xác định gồm có: nhân tố về chất lượng thể chế, trình độ công nghệ, nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng. Bên cạnh đó là các yếu tố mức mở cửa thị trường, quy mô thị trường. Trên cơ sở đó, luận án đã kiểm định ảnh hưởng của các nhân tố tới khả năng hấp thụ vốn FDI với chỉ số FDI thực hiện làm thang đo cho KNHT vốn FDI.
Những phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án
Dựa trên kết quả kiểm định từ mô hình, nhóm các nhân tố đã được chứng minh ảnh hưởng tới KNHT vốn FDI của Việt Nam gồm có nhân tố thể chế, mức độ hội nhập kinh tế, nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng. Bởi định hướng của Việt Nam là hướng tới các luồng vốn FDI có chất lượng, hàm lượng công nghệ cao. Do vậy cần phải đa dạng hoá chính sách thu hút đầu tư, cải thiện chất lượng công tác thẩm định dự án, cải thiện hệ thống chính sách nhằm tiếp cận được vốn FDI từ các quốc gia có công nghệ nguồn, có cơ hội chọn lựa các dự án FDI có chất lượng và khả thi, không gây ảnh hưởng xấu tới môi trường. Nguồn nhân lực có ảnh hưởng cùng chiều tới KNHT vốn FDI. Trước lợi thế về cơ cấu dân số vàng đang mất dần, và định hướng tiếp nhận FDI hàm lượng công nghệ cao, Việt Nam cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thông qua quá trình cải cách hệ thống giáo dục gắn với thực tiễn, phát triển mối liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp cũng như nới rộng các quy định sửdụng lao động nước ngoài. Ảnh hưởng của kết cấu hạ tầng hiển nhiên được thể hiện trên kết quả kiểm định. Ngoài ra, mức độ hội nhập kinh tế có ảnh hưởng không nhỏ tới KNHT, điều này đã phần nào giải thích được hoạt động của các DN FDI hướng tới thị trường Việt Nam nhằm mục đích tận dụng lợi thế kinh tế theo địa điểm.
Mặt khác, kết quả kiểm định không chứng minh được ảnh hưởng của yếu tố quy mô thị trường và trình độ công nghệ. Điều này phần nào phù hợp với luận giải của tác giả trong quá trình phân tích từng nhân tố ảnh hưởng. Về yếu tố quy mô thị trường, tác giả đã luận giải các doanh nghiệp FDI hướng vào thị trường Việt Nam với mục tiêu tận dụng lợi thế và phát triển chuỗi cung ứng, không hướng mục tiêu về thị trường. Về yếu tố trình độ công nghệ, trong luận giải của tác giả đã chỉ ra mức độ liên kết giữa DN FDI và DN nội địa còn rất yếu, nguồn cung ứng của các DN FDI chủ yếu từ nước ngoài hoặc từ các DN FDI khác.