TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT HỌC THUẬT, LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
Tên luận án: NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN VIỆC TRIỂN KHAI CÁC KỸ THUẬT KẾ TOÁN QUẢN TRỊ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM.
Chuyên ngành: Kế toán Mã số: 9340301
Nghiên cứu sinh: Nguyễn Thị Huyền Trâm Khóa: 2014 – Đợt 2
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn luận án: PGS.TS. Võ Văn Nhị
Tóm tắt những đóng góp mới về mặt lý thuyết và thực tiễn của luận án:
1. Về mặt lý thuyết
Công trình đã góp thêm một số kiến thức về các kỹ thuật KTQT tại các DNNVV lĩnh vực sản xuất ở các nước đang phát triển như Việt Nam, cụ thể là:
– Dựa trên lý thuyết bất định và lý thuyết thể chế, công trình đã phát hiện được bốn nhân tố có ảnh hưởng đến việc triển khai kỹ thuật KTQT trong các DNNVV thuộc lĩnh vực sản xuất ở Việt Nam, đó là các nhân tố: Độ mạnh của thị trường cạnh tranh, sự tham gia của chủ DN, công nghệ tiên tiến và nhân tố mô phỏng. Kết quả này là một đóng góp mới của đề tài.
– Công trình đã cung cấp thêm biến quan sát cho thang đo của nhân tố độ mạnh của thị trường cạnh tranh và sự tham gia của chủ DN. Các biến quan sát được bổ sung mang lại độ chính xác cao hơn đối với việc thu thập dữ liệu. Trong tương lai, các học giả có thể kế thừa những thang đo này để tiếp tục tiến hành những đề tài liên quan đến kỹ thuật KTQT.
– Tuy rằng DNNVV vẫn đang nhận được nhiều sự quan tâm từ các học giả, nhưng những nghiên cứu hàn lâm về KTQT ở các DNNVV ở Việt Nam hiện vẫn khá ít, đặc biệt là những nghiên cứu liên quan đến việc triển khai kỹ thuật KTQT. Việc thay đổi nhận thức và cung cấp kiến thức về kỹ thuật KTQT trong các DNNVV ở Việt Nam là điều hết sức quan trọng vì điều này sẽ giúp các DNNVV triển khai các kỹ thuật KTQT, tăng năng lực cạnh tranh và giảm khả năng thất bại trong kinh doanh. Do đó, công trình này hy vọng sẽ tạo động lực để các học giả tiếp tục những đề tài liên quan đến việc triển khai kỹ thuật KTQT tại các DNNVV lĩnh vực sản xuất ở VN trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Về mặt thực tiễn
Dựa vào những kết luận rút ra từ kết quả của công trình này, tác giả đề nghị một số hàm ý chính sách quản trị theo từng nhân tố có ảnh hưởng đến việc triển khai kỹ thuật KTQT trong các DNNVV lĩnh vực sản xuất VN như sau:
* Đối với nhân tố Độ mạnh của thị trường cạnh tranh.
Nhân tố này được tìm thấy là có mối quan hệ chặt chẽ với việc triển khai các kỹ thuật KTQT trong các DNNVV lĩnh vực sản xuất VN. Vì vậy, tác giả đề xuất một số giải pháp giúp tăng độ mạnh của thị trường cạnh tranh như sau: (1) Chính phủ cần tiếp tục cải tiến các chính sách nhằm tạo môi trường cạnh tranh công bằng cho các ngành nghề cũng như loại hình kinh doanh của DN, những thay đổi liên tục sẽ tạo nên sức ép để các DN thay đổi cho phù hợp với điều kiện mới. Khi áp lực cạnh tranh tăng lên, để duy trì và tăng trưởng, chắc chắn các DN phải chú ý đến hiệu quả của các hoạt động trong DN, từ đó nhu cầu sử dụng nhiều nguồn thông tin có ích của DN sẽ tăng nhằm hỗ trợ DN ban hành các quyết sách. Hệ thống KTQT phải giữ vai trò dẫn đường trong việc cung cấp tin tức và dữ liệu trợ giúp cho các chủ DN trong quá trình ban hành các quyết sách. (2) Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, khi VN gia nhập WTO thì VN phải tuân thủ một cam kết quan trọng đó là Nhà nước sẽ không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của DN. Chính vì vậy, Hiệp hội nghề nghiệp cần nâng cao vai trò và nỗ lực khẳng định tầm ảnh hưởng của mình đối với DN. Ngoài việc làm người đại diện để đấu tranh vì quyền, lợi ích của các DN thì Hiệp hội còn phải góp phần xúc tiến thương mại, đầu tư, đào tạo nhân lực, tư vấn và chia sẻ kinh nghiệm, cung cấp các dịch vụ cần thiết khác cho DN… (3) Các DN cần chủ động nâng cao khả năng cạnh tranh để duy trì hoạt động và khẳng định vị trí của mình không chỉ trong nước mà cả trên trường quốc tế. DN phải chủ động học tập, cập nhật kiến thức về kinh doanh và quản lý từ các nước tiên tiến thông qua các khóa đào tạo do hiệp hội chuyên môn tổ chức để nắm bắt khuynh hướng tăng trưởng của thị trường trong nước và quốc tế, điều chỉnh chương trình hành động của DN nhằm đạt mục tiêu mong muốn.
* Đối với nhân tố sự tham gia của chủ DN
Nhân tố này đã được chứng minh là một trong những nhân tố thực sự liên quan đến việc triển khai các kỹ thuật KTQT trong các DNNVV lĩnh vực sản xuất VN. Để giúp các DN tích cực tham gia vào việc triển khai các kỹ thuật này, tác giả đề nghị một số ý kiến: (1) Chính phủ cần có những quyết sách khuyến khích, hỗ trợ DN nâng cao nhận thức về vai trò của chủ DN đối với việc triển khai các kỹ thuật KTQT, nhận thức được sự đa dạng và lợi ích của các kỹ thuật KTQT đối với hoạt động kinh doanh để DN chủ động thay đổi. (2) Hiệp hội nghề nghiệp cần tổ chức thêm nhiều khóa đào tạo kỹ năng KTQT để giúp DN có cơ hội tìm hiểu và tiếp cận với các kỹ năng này. Hiện nay, các khóa đào tạo kiến thức chuyên môn về kế toán tài chính vẫn được tổ chức thường xuyên và rộng rãi vì các DN cần phải cập nhật kiến thức để đáp ứng những thay đổi của Luật, nhưng KTQT thì chưa được tổ chức nhiều. Vì vậy, Hiệp hội cần tăng cường tổ chức các buổi báo cáo chuyên đề và các khóa đào tạo về kế toán quản trị để giúp DN hiểu rõ và vận dụng kế toán quản trị vào hoạt động kinh doanh. (3) Chủ DN cần chủ động tích lũy, cập nhật thường xuyên những kiến thức về KTQT và nhanh chóng thay đổi nhận thức về KTQT. Các chủ DN cần có cái nhìn đúng đắn về KTQT, và quan trọng hơn cả là phải chủ động, đẩy mạnh triển khai KTQT trong hoạt động điều hành sản xuất – kinh doanh nhằm đạt được hiệu quả quản lý cao nhất.
* Đối với nhân tố công nghệ tiên tiến
Công nghệ tiên tiến đã được chứng minh là một trong những nhân tố có quan hệ đến việc triển khai các kỹ thuật KTQT trong các DNNVV lĩnh vực sản xuất VN. Vì vậy, tác giả đề xuất một số giải pháp để tăng cường áp dụng công nghệ tiên tiến trong DN như sau: (1) Chính phủ cần phân bổ ngân sách cho các đề án, chương trình khoa học và công nghệ nhằm tạo động lực cho các DN đưa công nghệ tiên tiến vào sử dụng trong hoạt động kinh doanh. Thiết lập mối quan hệ tương hỗ giữa DN với những cơ quan quản lý khoa học và công nghệ để đẩy mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ. Hơn nữa, Chính phủ cũng cần ban hành các quy chế, quy định hỗ trợ DN nhập khẩu máy móc tiên tiến, hiện đại để khuyến khích DN mạnh dạn đổi mới công nghệ. (2) Hiệp hội nghề nghiệp cần lên kế hoạch để sắp đặt và tổ chức các buổi tọa đàm, chia sẻ kinh nghiệm và những thuận lợi khi ứng dụng công nghệ tiên tiến. Bên cạnh đó, Hiệp hội cần tiếp tục tổ chức những chương trình vinh danh các DN thành công do đã mạnh dạn đầu tư vào công nghệ tiên tiến trong hoạt động sản xuất kinh doanh để làm gương cho các DN khác. (3) Các DN cũng cần chủ động tích lũy nội lực để có thể đứng vững trên trường quốc tế. Để chủ động hội nhập, các DN cần có năng lực tự chủ, không nên chỉ trông chờ vào sự hỗ trợ của Chính phủ mà cần phải xây dựng lộ trình để đầu tư cải tiến thiết bị sản xuất, công nghệ hóa, hiện đại hóa máy móc thiết bị, mạnh dạn thay thế các thiết bị lạc hậu.