TRANG THÔNG TIN VỀ LUẬN ÁN
Tên luận án: Phân tích đa dạng sản xuất nông nghiệp đến thu nhập và an toàn lương thực nông hộ vùng đồng bằng sông cửu long
Chuyên ngành: Phát triển Nông thôn Mã số: 9620116
Họ tên nghiên cứu sinh: Võ Văn Hà
Họ và tên người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Anh Pháp và TS. Nguyễn Hồng Tín
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Cần Thơ.
1. Tóm tắt nội dung luận án
Đa dạng hóa trong sản xuất nông nghiệp là vấn đề đang được quan tâm hiện nay, đặc biệt trong bối cảnh mà sản xuất nông nghiệp chịu nhiều rủi ro và bị tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu. Luận án nghiên cứu này nhằm mục tiêu tìm hiểu lược sử tiến trình chuyển dịch sản xuất, đánh giá hiệu quả đa dạng sản xuất đến thu nhập và an toàn lương thực nông hộ vùng ĐBSCL.
Luận án đã tiếp cận theo tiến trình nghiên cứu phát triển nông nghiệp và sử dụng khung lý thuyết về đa dạng trong sản xuất nông nghiệp đến đặc tính nông hộ và an toàn lương thực để phân tích; đồng thời áp dụng khung sinh kế để phân tích các nguồn vốn hộ nông dân theo vùng sinh thái và mô hình sản xuất. Nghiên cứu đã tổng hợp được nguồn số liệu thứ cấp, sơ cấp và phân tích số liệu phỏng vấn 309 nông hộ thực hiện các mô hình sản xuất ở các vùng sinh thái nông nghiệp khác nhau. Các số liệu được phân tích thống kê và sử dụng các kiểm định để đánh giá sự khác biệt. Các mô hình phân tích hồi qui đa biến đã tìm ra những yếu tố ảnh hưởng đến sự đa dạng sản xuất, chỉ số đa dạng thu nhập và mức độ an toàn lương thực nông hộ.
Kết quả cho thấy chuyển dịch đa dạng hóa sản xuất đã tác động đến tăng trưởng kinh tế vùng đồng bằng và đảm bảo an toàn lương thực quốc gia. Có sự cải cách từ hình thức sản xuất nông nghiệp theo hợp tác hóa để giải quyết tình trạng đói, cho đến đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp phục phụ xuất khẩu, rồi dần chuyển sang sản xuất nông nghiệp thích nghi theo vùng sinh thái để thích ứng biến đổi khí hậu, và tương lai tiến đến nền sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo chuỗi giá trị sản phẩm. Sản xuất lúa được duy trì ổn định (khoảng 4 triệu ha) và chuyển dịch theo chuỗi giá trị để nâng cao chất lượng sản phẩm. Các cây hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày thay đổi đáp ứng các nhu cầu thị trường ở từng giai đoạn nhất định. Diện tích trồng cây lâu năm và vườn tăng lên theo sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Đặc biệt, diện tích nuôi thủy sản tăng nhanh (gần 800 ngàn ha) theo lộ trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
Thu nhập nông hộ nông dân tăng tương quan với sự đa dạng trong sản xuất nông nghiệp. Thu nhập hộ ở vùng nước ngọt (Ngập lũ cao là 196 triệu/hộ và Trung tâm là 123 triệu) cao hơn ở vùng nước mặn (119 triệu/hộ) là do chỉ số đa dạng thu nhập trong hộ cao hơn (tương ứng; 0,21 và 0,28 so với -0,18). Nhóm hộ đa dạng các mô hình sản xuất đều cho tổng thu nhập cao hơn nhóm hộ sản xuất lúa hàng hóa. Các yếu tố về hoạt động sản xuất trong nông nghiệp, phi nông nghiệp và ngoài nông trại có ảnh hưởng tăng thu nhập hộ.
Sự đa dạng hóa sản xuất cải thiện được các nội dung đảm bảo sự an toàn lương thực trong hộ gia đình. Cụ thể, 83% hộ khảo sát có diện tích đất dùng cho sản xuất lúa để đảm bảo an toàn lương thực nông hộ, và đa số nông hộ đang chuyển dịch các mô hình sản xuất để đáp ứng nhu cầu của thị trường và tăng khả năng tiếp cận các nguồn lương thực thông qua yếu tố tăng thu nhập hộ. Kết nghiên cứu cho biết sự an toàn lương thực trong hộ nông dân không chỉ quan tâm đến sản xuất nhiều lúa gạo, mà còn chú trọng yếu tố thu nhập và sự đa dạng trong sản xuất mới đảm bảo được an toàn lương thực.
Do đó, các giải pháp hỗ trợ kỹ thuật và sự linh hoạt của cơ chế chính sách rất cần thiết cho chuyển dịch đa dạng trong sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, nâng cao nguồn lực trong hộ là cách tiếp cận mới để tăng khả năng tiếp cận đến các nguồn lương thực, dinh dưỡng và chăm sóc sức khỏe gia đình tốt hơn.
2. Những kết quả mới của luận án
Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu này đóng góp đánh giá tác động đa dạng hóa sản xuất đến thu nhập và an toàn lương thực cấp hộ nông dân theo vùng sinh thái và mô hình sản xuất khu vực ĐBSCL. Đặc biệt, có cách tiếp cận mới theo tiến trình nghiên cứu nông nghiệp và phát triển nông thôn, đồng thời áp dụng khung lý thuyết “Sự chuyển dịch đa dạng sản xuất nông nghiệp có liên quan đến các đặc tính hộ ông dân và an toàn lương thực” để phân tích các nguồn vốn sinh kế hộ. Phân tích tình trạng mất an toàn lương thực không chỉ đủ hiểu biết về mặt thời gian xảy ra sự cố, mà còn cho biết mức độ ảnh hưởng của dinh dưỡng lương thực nói chung. Mức độ nghiêm trọng của tình trạng thiếu dinh dưỡng có liên quan đến mức độ lương thực bị thiếu hoặc mức độ tiêu thụ năng lượng trong chế độ ăn uống giảm xuống dưới ngưỡng đã được xác định; cụ thể là những người thiếu dinh dưỡng cũng được xem như bị thiếu lương thực.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thực tế là đa dạng hóa các hoạt động trong hộ nông dân hay mô hình sản xuất trên nền đất lúa làm tăng thu nhập so với sản xuất độc canh hay thâm cây lúa như hiện tại. Thực tiễn đã chứng minh rằng sản xuất ra nhiều lương thực (như lúa gạo vùng ĐBSCL) vẫn chưa thể đảm bảo các nội dung an toàn lương thực cấp độ hộ nông dân, mà yếu tố thu nhập mới có tác dụng tích cực đến việc cải thiện dinh dưỡng trong hộ, cũng như tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lương thực trong gia đình vùng nông thôn. Do vậy, kết quả nghiên cứu này có thể áp dụng vào các chương trình mục tiêu quốc gia về chuyển dịch trong nông nghiệp, phát triển nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và bảo vệ môi trường sản xuất nông nghiệp khu vực ĐBSCL.
Tính mới luận án
Đóng góp mới của nghiên cứu này là minh chứng được đa dạng hóa SX hay mô hình SXNN trên nền đất lúa làm tăng thu nhập hộ so với độc canh lúa hàng hóa. Nghiên cứu cũng cho biết tình trạng thu nhập thấp và không ổn định làm giảm khả năng tiếp cận đến các nguồn lương thực nông hộ. Đồng thời, tình trạng thiếu dinh dưỡng có liên quan đến lương thực bị thiếu hoặc mức độ tiêu thụ năng lượng trong chế độ ăn uống của người dân giảm xuống dưới ngưỡng được xác định.
Các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
Tiếp theo nghiên cứu này đề nghị tiếp tục thực hiện các nghiên cứu đánh giá đa dạng các hoạt động sản xuất nông nghiệp cho nhiều nhóm đối tượng khác nhau (giàu, trung bình, nghèo và nhóm dân tộc tiểu số) ở nhiều vùng sản xuất nông nghiệp. Từ đó, có bộ số liệu so sánh đánh giá toàn diện hơn về tác động đa dạng trong sản xuất nông nghiệp cho các vùng miền trên cả nước.
Đồng thời xem xét lại các quy hoạch sử dụng đất theo vùng và nâng cấp các hệ thống dịch vụ hỗ trợ theo khu vực đa dạng trong sản xuất nông nghiệp.