Luận án Phản ứng của thị trường chứng khoán Việt Nam đối với biến động của thị trường chứng khoán quốc tế. Lưu

Luận án Phản ứng của thị trường chứng khoán Việt Nam đối với biến động của thị trường chứng khoán quốc tế.

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt, Tiếng Anh Định dạng: , , Lượt xem: 14 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được chúng tôi sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

THÔNG TIN LUẬN ÁN

Tên luận án: Phản ứng của thị trường chứng khoán Việt Nam đối với biến động của thị trường chứng khoán quốc tế.

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng Mã ngành: 62340201

Họ tên nghiên cứu sinh: Lê Văn Thứ

Người hướng dẫn khoa học: Pgs. Ts. Trần Ái Kết

Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Cần Thơ

1. Tóm tắt nội dung luận án

Luận án này vận dụng mô hình copula có điều kiện (ARMA-GJR-GARCH Copula) để xem xét sự phụ thuộc giữa thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam với các TTCK quốc tế gồm Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Trung Quốc, Hồng Kông, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Thái Lan, Malaysia và Indonesia trong trường hợp thị trường biến động bình thường và cả trường hợp thị trường biến động cực biên. Phương pháp copula có điều kiện cho phép mô hình hóa sự phụ thuộc đối xứng, bất đối xứng, sự phụ thuộc đuôi và không giả định các chuỗi lợi suất chứng khoán có phân phối chuẩn. Thông qua mức độ phụ thuộc giữa hai thị trường, nghiên cứu xác định được mức độ phản ứng của TTCK Việt Nam đối với sự biến động của các TTCK quốc tế. Mẫu dữ liệu theo tần suất ngày với cỡ mẫu dao động từ 4.449 quan sát đến 4.710 quan sát cho mỗi chuỗi lợi suất chứng khoán, được thu thập từ cơ sở dữ liệu Datastream, từ ngày 01/01/2003 đến ngày 31/12/2021. Luận án vận dụng các copula có điều kiện gồm copula Gauss, Student-t, Clayton, Rotated-Clayton, Gumbel, Rotated-Gumbel, Frank, Joe, và các copula hỗn hợp BB1, BB6, BB7 và BB8 để xây dựng hàm phân phối đồng thời của các phân phối biên của mỗi chuỗi lợi suất đã được xác định, nhằm xác định tham số phụ thuộc và phụ thuộc đuôi giữa hai chuỗi lợi suất. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, tồn tại mối quan hệ phụ thuộc yếu giữa TTCK Việt Nam và TTCK quốc tế trong tình huống thị trường biến động bình thường và cả trong tình huống thị trường hứng chịu các cú sốc lớn. Sự hội nhập của nền kinh tế Việt Nam thông qua các nguyên tắc cơ bản gồm liên kết thực và liên kết tài chính còn thấp, cùng với sự can thiệp biên độ giao dịch chứng khoán của cơ quan quản lý được xem là nguyên nhân dẫn đến sự phụ yếu giữa TTCK Việt Nam với TTCK quốc tế. Không tồn tại hiệu ứng lây lan biến động từ các TTCK quốc tế đến TTCK Việt Nam qua tác động của một loạt các sự kiện tiêu cực trong giai đoạn khủng hoảng tài chính thế giới.

2. Những kết quả mới của luận án

Luận án xem xét mối tương quan giữa TTCK Việt Nam với TTCK quốc tế thông qua phương pháp copula có điều kiện. Luận án này bổ sung vào tài liệu tham khảo một phương pháp mô hình hóa cấu trúc phụ thuộc giữa các tài sản tài chính. Phương pháp copula có ưu điểm là không giả định chuỗi lợi suất có phân phối chuẩn so với các phương pháp trước đây, chỉ ra được xác suất hai thị trường cùng sụp đổ hoặc bùng nổ cùng nhau. Luận án cung cấp một vài phát hiện như sau:

Tồn tại phụ thuộc yếu giữa TTCK Việt Nam và TTCK quốc tế. Mức độ phụ thuộc yếu giữa TTCK Việt Nam và TTCK quốc tế được giải thích thông qua các liên kết thực và liên kết tài chính như quy mô vốn hóa trên GDP của TTCK Việt Nam còn thấp; FDI và độ mở thương mại Việt Nam thấp trong phần lớn thời gian nghiên cứu (2003-2014); sự khác biệt về mức độ hội nhập tài chính giữa hai thị trường v.v. Sự điều chỉnh thu hẹp biên độ giao dịch của UBCKNN khi thị trường hứng chịu cú sốc lớn được xem là yếu tố chính dẫn đến sự phụ thuộc yếu ớt của TTCK Việt Nam với TTCK quốc tế. Cụ thể, trong điều kiện thị trường biến động bình thường, hệ số tương quan giữa TTCK Việt Nam với các TTCK quốc tế là tương đối thấp. Các TTCK quốc tế mà TTCK Việt Nam có tương quan cao nhất như Nhật Bản, Mỹ, Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc, hệ số phụ thuộc vẫn thấp hơn 0,20. Trong thời kỳ TTCK quốc tế lao dốc khi hứng chịu các cú sốc tiêu cực, khả năng lây lan từ các TTCK này đến TTCK Việt Nam là không đáng kể. Thậm chí, các TTCK có khả năng lây lan cao với TTCK Việt Nam như Hàn Quốc, Trung Quốc và Singapore là khá thấp (dưới 11%).

Không tồn tại hiệu ứng lây lan từ các TTCK quốc tế đến TTCK Việt Nam dưới tác động của một loạt các sự kiện tiêu cực xảy ra trong giai đoạn khủng hoảng tài chính thế giới (8/2007-3/2009). TTCK Hồng Kông có khả năng lây lan mạnh nhất đến TTCK Việt Nam, nhưng chỉ ở mức 13%. TTCK Việt Nam hầu như không chịu tác động lan tỏa từ các TTCK quốc tế được giải thích một phần từ sự điều chỉnh biên độ giao dịch của UBCKNN nhằm giảm thiểu thiệt hại cho nhà đầu tư và nền kinh tế. Biên độ giao dịch điều chỉnh dưới mức +/-3% trong năm 2008 khi cuộc khủng hoảng đạt đỉnh. Thực tế, khủng hoảng tài chính ít tác động trực tiếp đến TTCK Việt Nam mà tác động gián tiếp thông qua sự bất ổn của các yếu tố vĩ mô cơ bản của nền kinh tế như xuất khẩu giảm do cầu tiêu dùng tại các thị trường quốc tế giảm, vốn FDI giảm, giá dầu và giá lương thực tăng thúc gây ra lạm phát ở mức cao, lãi suất huy động tăng v.v. Các yếu tố vĩ mô này tác động tiêu cực đến hiệu quả hoạt động của các công ty niêm yết trên sàn chứng khoán, gây ra sự giảm giá trị cổ phiếu của các doanh nghiệp này.

Sau khủng hoảng, sự phụ thuộc giữa TTCK Việt Nam với TTCK quốc tế đã gia tăng đáng kể. Điểu này ngụ ý rằng, cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 đã làm thay đổi khá mạnh mẽ mức độ phụ thuộc giữa TTCK Việt Nam với các TTCK quốc tế. Sự gia tăng liên kết thực và liên kết tài chính, quy mô vốn hóa TTCK Việt Nam tăng, biên độ giao dịch được nới lỏng; tiến bộ trong ứng dụng công nghệ thông tin v.v. lý giải sự phụ thuộc gia tăng giữa TTCK Việt Nam và TTCK quốc tế. Cụ thể, TTCK Việt Nam có xu hướng giảm giá cùng chiều với sự giảm giá của các TTCK Hồng Kông, Trung Quốc, Singapore, Thái Lan khi các thị trường này hứng chịu cú sốc âm. TTCK Việt Nam có khả năng tăng giá cùng với sự bùng nổ tại TTCK Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan hơn là tình huống giảm giá khi các thị trường này lao dốc.

3. Các ứng dụng/khả năng ứng dụng trong thực tiễn, các vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

Giá trị VaR đo lường rủi ro danh mục đầu tư bằng cách vận dụng hàm copula có điều kiện (VaR có điều kiện – CvaR) cải thiện độ tin cậy khi so với phương pháp VaR truyền thống khi thị trường biến động mạnh. Do đó, cấu trúc hàm copula phù hợp nhất có thể được ứng dụng để xác định giá trị rủi ro danh mục đầu tư bao gồm cổ phiếu niêm yết TTCK Việt Nam với từng TTCK quốc tế. Hầu hết các nghiên cứu trước đây vận dụng phương pháp VaR truyền thống để tính giá trị rủi ro của danh mục. VaR không thỏa mãn tính chất 2 của độ đo rủi ro chặt chẽ (Artzner, 1999), nó chỉ thỏa mãn khi danh mục có phân phối chuẩn. Vì vậy quy tắc đa dạng hóa trong đầu tư bị phá vỡ, mức độ tổn thất thực tế có thể lớn hơn nhiều so với ước tính VaR. Phương pháp CvaR phù hợp để ước tính giá trị rủi ro danh mục đầu tư khi các chuỗi lợi suất chứng khoán không tuân theo phân phối chuẩn.

Phương pháp copula có điều kiện được mô tả trong luận án này có thể được sử dụng để mô hình hóa cấu trúc phụ thuộc giữa các tài sản tài chính khác và các tài sản thực trong các lĩnh vực khác như thị trường ngoại hối, thị trường vàng, thị trường năng lượng, thị trường kim loại và thị trường hàng hóa nông sản v.v.

Vận dụng mô hình copula có điều kiện để kiểm định hiệu ứng lây lan từ TTCK quốc tế đến TTCK Việt Nam dưới tác động của dịch Covid-19. Hay mở rộng hơn nữa là xem xét mối tương quan giữa các TTCK quốc tế hoặc Châu Á trong giai đoạn tác động của dịch Covid lên nền kinh tế toàn cầu.

Tải tài liệu

1.

Luận án Phản ứng của thị trường chứng khoán Việt Nam đối với biến động của thị trường chứng khoán quốc tế.

.zip
6.06 MB

Có thể bạn quan tâm