MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Với lịch sử phát triển hàng trăm năm, trang trại (TT) đã trở thành một trong những hình thức tổ chức sản xuất phổ biến và hiệu quả nhất của nền nông nghiệp thế giới. Ở các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN), hầu hết sản phẩm nông nghiệp được sản xuất ra từ TT.
Ở Việt Nam, sự phát triển nhanh chóng của TT từ đầu thập niên 90 trở lại đây đã góp phần khai thác hiệu quả đất trống, đồi trọc, đất hoang hóa, khai thác tốt nguồn vốn trong dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, làm đổi thay diện mạo kinh tế -xã hội và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn. Thành công của TT không chỉ thể hiện ở hiệu quả của chính nó mà quan trọng hơn, nó khẳng định một hướng đi đúng đắn cho sự phát triển nông nghiệp, nông thôn cũng như làm thay đổi nhận thức của nhiều cấp, nhiều ngành trong việc hoạch định chính sách cho phù hợp với xu thế phát triển kinh tế của thời đại. Chính vì vậy, phát triển TT là xu hướng tất yếu trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, so với các nước trên thế giới và yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH – HĐH) nông nghiệp, nông thôn thì sự phát triển TT nước ta còn mang tính tự phát, chưa đóng góp thỏa đáng vào việc mở rộng quy mô sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong điều kiện thị trường mở cửa hội nhập quốc tế như hiện nay. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu vấn đề phát triển TT có ý nghĩa rất thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
TT ở vùng Đông Nam Bộ (ĐNB) cũng xuất hiện và gia tăng mạnh vào những năm 90 của thế kỉ trước như các vùng khác nhưng xét về số lượng và hiệu quả thì cao hơn rất nhiều. Năm 2014, TT vùng ĐNB chiếm tới 20,7% số lượng, 38,6% diện tích và 44,5% doanh thu TT của cả nước. So sánh với ngành nông nghiệp chung của vùng ĐNB, TT cũng thể hiện vai trò đặc biệt quan trọng. Với diện tích chỉ chiếm 2,72% diện tích đất nông nghiệp, lao động chỉ chiếm 2,62% và số hộ tham gia sản xuất chỉ chiếm 0,39% nhưng TT đã chiếm tới 14% giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp [113]. Có thể nói, vùng ĐNB là một điển hình phát triển TT cần phải được phổ biến rộng rãi để các vùng khác học tập.
Tuy nhiên, cũng như tình trạng phát triển TT chung của cả nước, TT ở đây chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của vùng. Có nhiều nguyên nhân kìm hãm sự phát triển TT ở ĐNB và cũng là các vấn đề cần phải tiếp tục được nghiên cứu, tháo gỡ. Đó là thị trường nông nghiệp chưa phát triển, các yếu tố đầu vào, đầu ra cho sản xuất chưa được đảm bảo; chính sách phát triển TT (về đất, vốn, vật tư, tiêu thụ,…) còn nhiều bất cập, chưa thực sự tạo tác động đủ mạnh để giải phóng sức dân, huy động toàn lực trong dân vào phát triển TT. Việc phát triển TT do đó còn thiếu quy hoạch, tình trạng phát triển chạy theo số lượng vẫn còn khá phổ biến.
Đứng trước xu thế phát triển của đất nước, trước những thời cơ và thách thức đang mở ra cho nông nghiệp vùng ĐNB, việc phải nhanh chóng cơ cấu lại nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa gắn với phát triển bền vững dựa trên việc khai thác những lợi thế nhằm gia tăng tính cạnh tranh của sản phẩm là vô cùng cần thiết. Để làm được điều này, đẩy mạnh phát triển TT sẽ là một hướng đi đúng đắn cần được ưu tiên.
Xuất phát từ thực tiễn trên, nghiên cứu sinh (NCS) đã quyết định chọn đề tài “Phát triển trang trại ở vùng Đông Nam Bộ” làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận án là: làm rõ sự phát triển trang trại ở vùng Đông Nam Bộ dưới góc độ địa lí, trong đó tập trung vào việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng, thực trạng phát triển trang trại, từ đó đề xuất định hướng và giải pháp góp phần thúc đấy sự phát triển trang trại ở Đông Nam Bộ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển TT vận dụng vào địa bàn vùng ĐNB.
– Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển TT ở vùng Đông Nam Bộ.
– Phân tích hiện trạng phát triển TT ở vùng ĐNB giai đoạn 2006 – 2014.
– Đề xuất định hướng và các giải pháp phát triển TT ở vùng ĐNB.