1. Lý do chọn đề tài
1.1. Luật giáo dục năm 2005 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật giáo dục (2009) khẳng định “nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục”. Văn kiện Đại hội Đảng XI xác định “đổi mới cơ chế quản lígiáo dục, phát triển đội ngũ GV và cán bộ quản lí là khâu then chốt của đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam”. Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI yêu cầu “nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất lượng giáo dục của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục” [23]. Vì vậy mỗi GV đều phải đạt chuẩn về trình độ đào tạo, vững vàng về năng lực chuyên môn, có phẩm chất tốt, tận tụy với nghề… đáp ứng yêu cầu của mục tiêu dạy học và giáo dục. Hiệu trưởng nhà trường cần phải có năng lực quản lí công tác BDGV để đội ngũ GV đoàn kết và đủ điều kiện để sáng tạo trong việc thực hiện tốt nhất mục tiêu giáo dục, giúp họ thấy được sự phát triển của cá nhân gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của nhà trường. Nói một cách khác, một trong những nhiệm vụ quan trọng phát triển đội ngũ GV phải gắn bó giữa bồi dưỡng với việc sử dụng hợp lý; tạo môi trường công tác thuận lợi cho GV phấn đấu và trưởng thành.
1.2. Ngày 22 tháng 10 năm 2009, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 30/2009/TT-BGDĐT quy định CNN GV trung học cơ sở, GV THPT (gọi tắt là CNN). Theo quy định này, CNN gồm 6 tiêu chuẩn: (1) Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; (2) Năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục; (3) Năng lực dạy học; (4) Năng lực giáo dục; (5) Năng lực hoạt động chính trị, xã hội; (6) Năng lực phát triển nghề nghiệp [9].
Mục đích của việc ban hành CNN là giúp GV tự đánh giá phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, năng lực nghề nghiệp, từ đó xây dựng kế hoạch rèn luyện phẩm chất và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; làm cơ sở để nhà trường và các cơ quan quản lý giáo dục đánh giá, xếp loại GV hằng năm, phục vụ công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ GV; xây dựng, phát triển chương trình đào tạo, bồi dưỡng GV; nghiên cứu, đề xuất và thực hiện chế độ chính sách đối với GV; cung cấp dữ liệu cho các hoạt động quản lý khác.
1.3. Thời gian qua, cùng với việc đổi mới công tác đào tạo, công tác BDGV ở trường phổ thông đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, qua theo dõi thực tế có thể thấy rằng, hoạt động này ở trường THPT còn khá nhiều bất cập.