Luận án Tác động của chính sách tiền tệ và chính sách an toàn vĩ mô đến ổn định tài chính: Nghiên cứu tại các nước có nền kinh tế mới nổi và dẫn dắt tăng trưởng kinh tế thế giới. Lưu

Luận án Tác động của chính sách tiền tệ và chính sách an toàn vĩ mô đến ổn định tài chính: Nghiên cứu tại các nước có nền kinh tế mới nổi và dẫn dắt tăng trưởng kinh tế thế giới.

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt, Tiếng Anh Định dạng: , Lượt xem: 6 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được chúng tôi sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

THÔNG TIN TÓM TẮT VỀ NHỮNG ĐIỂM MỚI LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Tên luận án: Tác động của chính sách tiền tệ và chính sách an toàn vĩ mô đến ổn định tài chính: Nghiên cứu tại các nước có nền kinh tế mới nỗi và dẫn dắt tăng trưởng kinh tế thế giới.

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 9.34.02.01

Nghiên cứu sinh: Nguyễn Trần Xuân Linh

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TSKH. Nguyễn Ngọc Thạch

Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh

Luận án được thực hiện với các mục tiêu cụ thể như sau: (i) Đề xuất một bộ chỉ tiêu đo lường ổn định tài chính phù hợp đặc thù hệ thống tài chính tại các quốc gia có nền kinh tế mới nổi và dẫn dắt tăng trưởng kinh tế thế giới (Emerging and growth-leading economies – EAGLEs); (ii) Đánh giá tác động của chính sách tiền tệ (CSTT) và chính sách an toàn vĩ mô (CSATVM) đến ổn định tài chính tại nhóm EAGLEs và từng quốc gia cụ thể thuộc nhóm EAGLEs trong giai đoạn 2008-2018; (iii) Đề xuất một số hàm ý chính sách trong thực thi CSTT và CSATVM để cải thiện ổn định tài chính tại các nhóm nước thuộc nhóm EAGLES.

Với mục tiêu nghiên cứu đã trình bày, dựa vào nguồn dữ liệu 15 quốc gia thuộc nhóm EAGLES trong giai đoạn 2008-2018, tác giả đã đánh giá tác động của CSTT và CSATVM đến ổn định tài chính. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi cơ quan thực thi chính sách gia tăng mức tăng trưởng cung tiền M2, hoặc mở rộng tín dụng ngân hàng cho khu vực tư nhân (TDNH cho KVTN) thì mức độ ổn định tài chính sẽ giảm xuống với xác suất lần lượt là 92% và 93%. Trong khi đó, lãi suất chính sách tiền tệ gia tăng có tác động làm giảm ổn định tài chính với xác suất lên đến 100%. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy CSTT và CSATVM khi được thực thi cùng chiều sẽ giúp cải thiện ổn định tài chính với xác suất là 85%. Đối với các công cụ CSATVM, kết quả hồi quy cho thấy một kết quả rất đáng ngạc nhiên khi khoản vay trên giá trị (Loan to value – LTV) gây ra tác tiêu cực đến ổn định hệ thống tài chính tại các nước EAGLEs với xác suất lên đến 98%. Bên cạnh đó, kết quả hồi quy cho thấy, giới hạn phơi nhiễm hệ thống (Limits on Interbank Exposures – INTER) và dự trữ bắt buộc cho mục đích an toàn vĩ mô (FX and/or Countercyclical Reserve Requirements – RR) có tác động hỗ trợ ổn định tài chính. Tuy nhiên, xác suất tác động của INTER và RR rất thấp, lần lượt là 55% và 50%, điều này có nghĩa là tác động của hai yếu tố này đến ổn định tài chính là không rõ ràng. Giới hạn cho vay bằng ngoại tệ (Limits on Foreign Currency Loans – FC) và quy định về phụ phí vốn đối với các định chế tài chính có tầm quan trọng đối với hệ thống tài chính (Capital surcharges for systemically important institutions SIFIs) được xem các công cụ hiệu quả trong việc duy trì sự ổn định hệ thống của quốc gia, xác suất tác động dương đến ổn định tài chính lần lượt đạt 92% và 96%.

Đối với từng quốc gia cụ thể thì tác động của CSTT và CSATVM cũng cho kết quả tương tự với toàn nhóm EAGLEs nhưng ở các mức độ khác nhau, trừ Ai Cập trong ngắn hạn, khi nới lỏng cung tiền thì ổn định tài chính của quốc gia này sẽ tăng lên, và Malaysia khi mở rộng TDNH cho KVTN cũng giúp cải thiện ổn định tài chính cho quốc gia này trong ngắn hạn. Tuy nhiên, về mặt dài hạn, cả hai công cụ này đều làm giảm ổn định tài chính của hai quốc gia này nếu chúng được nới lỏng liên tục trong một thời gian dài.

Thông qua kết quả nghiên cứu, tác giả đã đề xuất một số hàm ý chính sách cụ thể như sau. Thứ nhất, khác với các quốc gia phát triển, lạm phát luôn được kiểm soát ở mức thấp do vậy có thể duy trì lãi suất thấp trong thời gian dài và gây ra tích lũy rủi ro; các quốc gia thuộc nhóm EAGLEs thường xuyên phải đối mặt với lạm phát cao và phải sử dụng công cụ LSCS để đối phó với lạm phát, khi lạm phát được khống chế thì các quốc gia lại nới lỏng LSCS để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khiến LSCS thường xuyên biến động. Khi lãi suất tăng sẽ làm tăng gánh nặng nợ cho những người đi vay và làm tăng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng và làm xói mòn tính ổn định của hệ thống tài chính. Vì vậy, các quốc gia nên đặt trọng tâm kiểm soát lạm phát khi thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô để có thể duy trì LSCS một cách ổn định, hợp lý, tránh gia tăng đột ngột gây tổn thương cho hệ thống tài chính quốc gia. Thứ hai, khi các quốc gia này thực thi mở rộng tăng trưởng cung tiền và TDNH cho KVTN để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thì nên được tiến hành một cách thận trọng vì nó có thể gây ra tác động tiêu cực đến ổn định tài chính tại các quốc gia này ngoài ra hai chính sách này nên được thực thi cùng chiều để cải thiện ổn định tài chính. Thứ ba, công cụ LTV nên được sử dụng một cách linh hoạt hơn để nâng cao hiệu quả của công cụ này đối với ổn định tài chính. Thứ tư, các quốc gia nên triển khai các công cụ như DTBB tăng thêm đối với các định chế tài chính có tầm quan trọng đối với hệ thống tài chính và giới hạn cho vay bằng ngoại tệ vì kết quả thực nghiệm cho thấy hai công cụ này rất hiệu quả trong việc cải thiện tính ổn định của hệ thống tài chính.

So sánh với các nghiên cứu đã được tiến hành trước đó, luận án này có những điểm mới như sau:

Thứ nhất, dựa vào bộ chỉ số ổn định tài chính của Albulescu (2008), tác giả đã có những hiệu chỉnh để bộ chỉ số này phù hợp với đặc thù hệ thống tài chính nhóm nước EAGLEs, qua đó đề xuất một bộ công cụ đo lường và theo dõi sức khỏe hệ thống tài chính của nhóm nước EAGLES.

Thứ hai, các nghiên cứu hiện tại chỉ xem xét tác động của CSTT hoặc CSATVM hoặc cả hai chính sách đến một số yếu tố như sự tăng giá tài sản, chu kỳ tín dụng, tăng trưởng giá nhà và tăng trưởng tín dụng và xem đây là biến đại diện cho Ổn định tài chính. Tuy nhiên các yếu tố này chỉ phản ánh được một vài khía cạnh của hệ thống tài chính nó không bao hàm hết các khía cạnh của một hiện tượng kinh tế phức tạp như Ôn định tài chính. Trong nghiên cứu này, tác giả đã phát triển một bộ chỉ số Ổn định tài chính phù hợp đặc thù hệ thống tài chính tại các quốc gia thuộc nhóm EAGLEs, nhờ vậy có thể xem xét tác động của CSTT và CSATVM đến chỉ số Ôn định tài chính của các quốc gia này một cách toàn diện hơn, qua đó đề xuất giải pháp ít bị thiên lệch hơn.

Thứ ba, khác với các nghiên cứu trước được thực hiện theo phương pháp kinh tế lượng tần suất, nghiên cứu này được tiến hành theo cách tiếp cận Bayes. Nhờ lợi thế xử lý được vấn đề mẫu nhỏ của phương pháp Bayes, nghiên cứu này không chỉ dừng lại ở phân tích tác động CSTT và CSATVM đến ổn định tài chính của tổng thể nhóm nước như các nghiên cứu đã được thực hiện mà đi sâu vào phân tích từng quốc gia trong mẫu qua đó rút ra các bài học kinh nghiệm và đề xuất được các giải pháp chính sách phù hợp với các quốc gia thuộc nhóm EAGLES.

Cuối cùng, thông qua nghiên cứu thực nghiệm, tác giả đã phát hiện lãi suất có tác động ngược chiều đến ổn định tài chính tại các quốc gia thuộc nhóm EAGLES, đây được xem là điểm khác biệt so với các nghiên cứu đã được thực hiện tại các quốc gia phát triển như Dell’Ariccia, Laeven và Suare, 2013; Jiménez và cộng sự, 2014; Dell’Ariccia, Laeven, và Marquez, 2015; Nier và Kang, 2016. Kết quả này được giải thích là do các quốc gia nhóm EAGLEs thường xuyên phải đối mặt với lạm phát cao do vậy phải sử dụng công cụ lãi suất để đối phó, nhưng khi lạm phát đã được kiểm soát thì các quốc gia lại nới lỏng CSTT nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, do vậy lãi suất các quốc gia này thường xuyên biến động chứ không thể duy trì ở mức thấp trong thời gian dài như các quốc gia phát triển. Lãi suất tăng làm làm tăng chi phí hoạt động của nền kinh tế, giảm dòng thu nhập và qua đó cũng làm giảm khả năng trả nợ của nền kinh tế. Lãi suất tăng lên cũng làm hạ giá trị ròng của tài sản đảm bảo và làm giảm khả năng tiếp cận tín dụng ngắn hạn từ đó làm tăng rủi ro vỡ nợ với các khoản vay hiện tại hậu quả là có thể dẫn tới một cuộc khủng hoảng. Đây có thể xem là đóng góp về mặt lý thuyết, lãi suất tăng sẽ làm giảm Ồn định tài chính tại các quốc gia có nền kinh tế mới nổi và đang phát triển.

Tải tài liệu

1.

Luận án Tác động của chính sách tiền tệ và chính sách an toàn vĩ mô đến ổn định tài chính: Nghiên cứu tại các nước có nền kinh tế mới nổi và dẫn dắt tăng trưởng kinh tế thế giới.

.zip
8.06 MB

Có thể bạn quan tâm