NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN ÁN
Đề tài luận án: Tác động của một số nhân tố vĩ mô đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Chuyên ngành: Tài chính Ngân hàng Mã số: 9340201
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Nghiên cứu sinh: Ngô Khánh Huyền
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Thị Bất
Những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận
Thứ nhất, luận án đã hệ thống hóa lý thuyết hiệu quả hoạt động và đánh giá được tác động của các nhân tố vĩ mô đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn 2008 – 2020.
Thứ hai, Luận án đã phối hợp phương pháp phân tích định tính và định lượng (DEA) để phân tích tác động tổng hợp của các chỉ tiêu vi mô và vĩ mô trong phân tích hiệu quả hoạt động của các ngân hàng. Trong khi những nghiên cứu trước chỉ sử dụng các chỉ tiêu đơn mà không cho phép phân tích toàn diện hoạt động của ngân hàng thì luận án này đã làm được điều đó. Hơn nữa, luận án này cũng khác với nghiên cứu sử dụng mô hình định lượng DEA nhưng chỉ tập trung vào khía cạnh của DEA, mà chưa cho ta hiểu một cách sâu sắc về hiệu quả các ngân hàng và các rào cản từ bên trong và bên ngoài (môi trường) ngân hàng.
Thứ ba, trong khi các luận án trước đây thường có thời gian nghiên cứu từ 5-8 năm và dữ liệu thu thập đến 2018, thì luận án này có giai đoạn nghiên cứu bao trùm, kéo dài trong 13 năm từ 2008- 2020, dữ liệu ngân hàng được thu thập và cập nhật đến năm 2020, vì vậy phản ánh được tính biến động của ngành ngân hàng nói riêng và chu kì kinh tế nói chung. Thực tế, giai đoạn này đã xảy ra nhiều biến động tái cấu trúc trong hệ thống ngân hàng như sáp nhập, thâu tóm nên các khuyến nghị đề xuất trong luận án có ý nghĩa đặc biệt.
Kết luận, đề xuất mới rút ra từ kết quả nghiên cứu
– Kết quả ước lượng mô hình hiệu quả cho thấy từ năm 2008 đến 2013 hiệu quả kỹ thuật trung bình của 23 ngân hàng tăng từ 0.84 đến 0.91, tuy nhiên trong giai đoạn sau từ 2018 đến 2020 hiệu quả dao động quanh 0.84.
Kết quả ước lượng 3 mô hình Tobit đánh giá tác động cho thấy các nhân tố thuộc về đặc trưng doanh nghiệp chỉ có vốn/ lao động (K/L), ROE và E/A là có ảnh hưởng dương đến hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả thuần. Trong các biến vĩ mô, có FDI (đầu tư trực tiếp nước ngoài) có ảnh hưởng âm và có ý nghĩa thống kê cao trong cả 3 mô hình. GDP (tổng sản phẩm quốc nội) và lạm phát tác động dương ở hai mô hình và tác động âm ở 1 mô hình.
Chỉ số năng suất Malmquist được sử dụng để đo tăng trưởng năng suất trong nghiên cứu này. Với cách tiếp cận DEA (phân tích bao dữ liệu), tăng trưởng năng suất có thể được phân rã thành hai thành phần: thay đổi kỹ thuật và thay đổi hiệu quả. Kết quả ước lượng các chỉ số Malmquist từ mô hình 1 và 2 cho thấy thay đổi hiệu quả của các ngân hàng thương mại đều tích cực (lớn hơn 1), trong khi đó thay đổi TFP (năng suất tổng hợp) ước lượng được nhỏ hơn 1.
Khuyến nghị cho các NHTM
– Có 4 nhóm khuyến nghị giúp cho các ngân hàng nâng cao tự chủ, chủ động cải tổ và sắp xếp lại chính tổ chức của mình để đạt được hiệu quả hoạt động tốt hơn: (i) các khuyến nghị về tạo lập và sử dụng vốn hiệu quả, (ii) các khuyến nghị về nâng cao năng lực quản trị rủi ro, (iii) các khuyến nghị về lao động, (iv) các khuyến nghị về kiểm soát chi phí.
Khuyến nghị với NHNN và Chính phủ
– NHNN cần cẩn trọng trong việc tiếp tục tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Đồng thời, thúc đẩy các NHTM áp dụng các tiêu chuẩn Basel, nâng cao hiệu quả quản trị và trình độ công nghệ của ngân hàng, tích cực thực hiện vai trò giám sát của mình cùng các cơ quan quản lý khác.
– Chính phủ cần điều chỉnh việc thu hút FDI nhằm thay đổi tác động âm thành tác động dương. Ngoài ra, cần ban hành những chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tiền tệ và tài khóa thích hợp, linh hoạt để đảm bảo được tốc độ tăng trưởng, duy trì tỷ lệ lạm phát ổn định, hỗ trợ hoạt động của các ngân hàng thương mại một cách tích cực.