TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT HỌC THUẬT, LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
Tên luận án: Tác động của tính cách, giáo dục và kinh nghiệm đến ý định khởi sự kinh doanh xã hội.
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh Mã số: 9340101
Nghiên cứu sinh: Phan Tấn Lực Khóa: 2017
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn luận án: 1. PGS.TS Phạm Xuân Lan; 2. PGS.TS Bùi Thanh Tráng
Nội dung ngắn gọn những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận, những luận điểm mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án:
1. Đóng góp về mặt lý thuyết
Trong luận án này, tác giả đã thực hiện tổng quan một cách có hệ thống (systematic literature review) các nghiên cứu về ý định KSKDXH, đây cũng là nghiên cứu đầu tiên thực hiện tổng quan các nghiên cứu về ý định KSKDXH. Kết quả cho thấy các nghiên cứu về ý định KSKDXH bao gồm bốn danh mục nghiên cứu chính. Từ đó, tác giả đề xuất các hướng nghiên cứu tiềm năng trong tương lai cho từng danh mục.
Đối với nghiên cứu thực nghiệm thứ nhất về vai trò của đặc điểm tính cách đến ý định KSKDXH
Thứ nhất, nghiên cứu này này kiểm tra và mở rộng mô hình ý định KSKDXH đầu tiên của Mair và Noboa (2006) bằng cách kết hợp các tính cách của doanh nhân thương mại và các tính cách xã hội để xem xét mối quan hệ giữa các tính cách và ý định KSKDXH. Kết quả cho thấy hai yếu tố của mô hình của Mair và Noboa (2006) là nhận thức về tính khả thi KSKDXH, nhận thức sự mong muốn KSKDXH có khả năng dự đoán được ý định KSKDXH và trung gian trong mối quan hệ từ các tính cách đến ý định KSKDXH.
Thứ hai, nghiên cứu này xem xét đồng thời vai trò của các tính cách kinh doanh truyền thống (xu hướng rủi ro, nhu cầu thành tích, tính chủ động và tính sáng tạo), tính cách KDXH (sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức) và vai trò tác động của từng tính cách đến nhận thức về tính khả thi KSKDXH và nhận thức sự mong muốn KSKDXH và ý định KSKDXH. Kết quả cho thấy, tính chủ động, tính sáng tạo, sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức có tác động tích cực đến ý định KSKDXH.
Thứ ba, nghiên cứu này đóng góp vào cơ sở lý thuyết bằng cách kiểm tra tác động trung gian từ các đặc điểm tính cách đến ý định KSKDXH. Cụ thể hai biến trung gian (nhận thức về sự mong muốn và nhận thức về tính khả thi) trung gian mối quan hệ từ tính chủ động đến ý định KSKDXH và trung gian một phần mối quan hệ từ nghĩa vụ đạo đức đến ý định KSKDXH. Ngoài ra, chỉ có nhận thức về tính khả thi trung gian hoàn toàn tác động từ tính sáng tạo đến ý định KSKDXH và trung gian một phần mối quan hệ từ sự đồng cảm đến ý định KSKDXH.
Đối với nghiên cứu thực nghiệm thứ hai về vai trò của giáo dục và kinh nghiệm đến ý định KSKDXH
Đầu tiên, nghiên cứu này xem xét khả năng ứng dụng của lý thuyết nhận thức xã hội về nghề nghiệp để dự đoán ý định KSKDXH. Với kết quả nghiên cứu thực nghiệm này, lý thuyết nhận thức xã hội về nghề nghiệp hoàn toàn có thể dự đoán ý định KSKDXH thông hai tiền đề là sự tự tin vào năng lực bản thân trong KDXH và kết quả mong đợi từ KSKDXH.
Thứ hai, tác giả đã mở rộng mô hình lý thuyết nhận thức xã hội về nghề nghiệp bằng cách bổ sung hai biến bao gồm kinh nghiệm làm việc với các tổ chức xã hội và giáo dục KSKDXH. Nghiên cứu này đã đóng góp cho sự hiểu biết về các khía cạnh khác của kinh nghiệm và giáo dục trong lĩnh vực nghiên cứu về ý định KSKDXH, cụ thể kinh nghiệm được đo lường bằng kinh nghiệm làm việc với các tổ chức xã hội và giáo dục được đo lường bằng cảm nhận về trải nghiệm giáo dục KSKDXH.
Thứ ba, kết quả đã đóng góp cho cơ sở lý thuyết về ý định KSKDXH bằng cách khám phá hai tác động trung gian của sự tự tin vào năng lực bản thân trong KDXH và kết quả mong đợi từ KSKDXH trong mối quan hệ từ giáo dục KSKDXH và kinh nghiệm làm việc với các tổ chức xã hội đến ý định KSKDXH. Hai biến trung gian này trung gian hoàn toàn trong tác động của kinh nghiệm làm việc với các tổ chức xã hội đến ý định KSKDXH, trong khi đó sự tự tin vào năng lực bản thân chỉ trung gian một phần ảnh hưởng của giáo dục đến ý định KSKDXH.
2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Luận án thực hiện hai tổng quan về khởi sự KDXH và ý định khởi sự KDXH, những tổng quan này giúp những nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này định vị được nghiên cứu của mình trong dòng chủ đề này. Ngoài ra, những nhà nghiên cứu mới khi tìm hiểu về các chủ đề này sẽ có được các nhìn tổng quát về những cấu trúc chính, những hướng nghiên cứu chính trong khởi sự KDXH và ý định khởi sự KDXH. Các nhà hoạch định chính sách, những người vốn rất ít tiếp xúc với các vấn đề học thuật cũng có thể tiếp cận chủ đề về khởi sự KDXH một cách dễ dàng hơn để tìm hiểu và xây dựng chiến lược phát triển KDXH.
Nghiên cứu thực nghiệm trong luận án này cung cấp những hiểu biết thực tế cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà giáo dục KSKD. Ngoài ra, các nhà hoạch định chính sách nên phát triển một môi trường thúc đẩy tính chủ động, sáng tạo, khơi gợi sự đồng cảm và nghĩa vụ đạo đức – đây là những tính cách ảnh hưởng đến ý định KSKDXH. Các nhà hoạch định chính sách có thể tổ chức và thiết kế các chương trình giúp sinh viên nhận thức rõ hơn về tinh thần KDXH, tư vấn và hỗ trợ các ý tưởng và giải pháp sáng tạo. Điều này giúp tăng khát vọng của các doanh nhân xã hội tiềm năng và khiến họ cảm thấy có khả năng trở thành doanh nhân xã hội hơn khi nhận được nhiều hỗ trợ xã hội.
Các khóa học kinh doanh hiện tại nên được mở rộng để trang bị kiến thức và kỹ năng KSKDXH. Điều này sẽ không chỉ cải thiện nhận thức KSKDXH mà còn trang bị các khả năng cần thiết cho cả doanh nhân thương mại và doanh nhân xã hội trong tương lai. Các nhà giáo dục doanh nhân xã hội có thể tạo ra nhiều cơ hội để trải nghiệm thực hành với các nhiệm vụ liên quan đến xã hội để giúp khơi gợi những tính cách KDXH từ sinh viên. Ngoài ra, kinh nghiệm với các vấn đề xã hội trong các công việc tình nguyện hoặc tiếp xúc trực tiếp với các doanh nhân xã hội có thể trở thành động lực cho một cá nhân trở thành một doanh nhân xã hội.
Các phát hiện cho thấy ý định KSKDXH có thể được dự đoán bằng sự tự tin vào năng lực bản thân trong KDXH và kết quả kỳ vọng từ KSKDXH. Sự tự tin vào năng lực bản thân trong KDXH và kết quả kỳ vọng từ KSKDXH có thể được phát triển thành các công cụ đo lường để đo lường sự tự tin, kỳ vọng và khả năng theo đuổi tinh thần KSKDXH như một nghề nghiệp. Các nhà hoạch định chính sách có thể sử dụng hai công cụ này để tìm ứng viên phù hợp.
Các chiến lược làm tăng sự tự tin cho các doanh nhân xã hội tiềm năng nên được ưu tiên triển khai như trang bị kiến thức và kỹ năng KSKDXH cho những đối tượng này, xây dựng hành lang pháp lý rõ ràng, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng để phát triển DNXH và cung cấp nguồn vốn để phát triển và khởi sự DNXH. Ưu tiên chiến lược tiếp theo nhắm đến việc làm tăng nhận thức về kết quả mong đợi của việc trở thành doanh nhân xã hội. Giáo dục, truyền thông và chính phủ cần hợp tác nhiều hơn để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của các DNXH và những gì một doanh nhân xã hội có thể đạt được. Các DNXH thành công hoặc những đóng góp của các DNXH cần được đưa vào chương trình giáo dục và xuất hiện nhiều hơn trên báo chí hoặc mạng xã hội để có thể nâng cao nhận thức của người dân, giúp hình thành những hình mẫu lý tưởng (role model) để thế hệ trẻ noi gương và phát triển theo.
Các kiến thức và kỹ năng cần được cập nhật liên tục theo các vấn đề xã hội mới nhất để các cá nhân cảm thấy tự tin vào khả năng KSKDXH của mình. Chương trình đào tạo và các khóa đào tạo nên nhằm mục đích trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết cũng như giữ vai trò như nhà tư vấn, định hướng cho các doanh nhân xã hội tiềm năng. Các hoạt động thực tế với các tổ chức xã hội không chỉ giúp người học có được kinh nghiệm với các vấn đề xã hội mà còn giúp đào tạo các kỹ năng xã hội và truyền bá tinh thần kinh doanh KSKDXH. Các mạng lưới doanh nhân xã hội cũng cần được thiết lập để kết nối với các doanh nhân xã hội với những doanh nhân xã hội tiềm năng. Cách này sẽ giúp những người muốn trở thành doanh nhân xã hội học được các kỹ năng và kiến thức cũng như duy trì động lực và nhiệt huyết để tham gia vào hoạt động KDXH.