Luận án Thần tích hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận thời Nguyễn qua tư liệu Hán Nôm Lưu

Luận án Thần tích hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận thời Nguyễn qua tư liệu Hán Nôm

Danh mục: , Người đăng: Minh Tính 2 Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: , Lượt xem: 0 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được chúng tôi sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội là một vùng “nhân kiệt địa linh”. Sự linh thiêng của vùng đất này một phần được thể hiện trong thần tích của các thần ở chốn quốc đô. Đó là thần Bạch Mã đại vương, thành hoàng của đất Thăng Long là hậu thân của thần Long Đỗ ở thời Bắc thuộc, đạp đổ mọi trấn yểm của Cao Biền; thần Cao Sơn đại vương giúp vua Lê Tương Dực dẹp loạn. Thần Linh Lang gắn liền với các cuộc chống ngoại xâm thời Lý Trần; thần Huyền Thiên Trấn Vũ đại đế tuy có nguồn gốc Đạo giáo nhưng được Việt hóa trong nhiệm vụ trấn giữ phía Bắc của thành Thăng Long.

Các vị ấy một mặt vừa âm phù cho công cuộc phục hưng của dân tộc cũng như cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ nhà nước Đại Việt độc lập tự chủ. Các vị thần được thờ ở đây đã được nhà nước bao phong từ rất sớm, có tính chất và mang tầm cỡ của các vị thần chốn quốc đô.

Tuy nhiên, khoảng thời gian tồn tại của hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận giai đoạn thời Nguyễn (thế kỷ XIX), Thăng Long tạm thời mất vị tríquốc đô. Nhưng dù không còn vị trí quốc đô thì trong tâm thức dân gian, Thăng Long vẫn luôn là quốc đô, vẫn là nơi hạo khí anh linh ngút trời còn mãi trong tâm tưởng Thăng Long. Thần chính khí Long Đỗ vẫn vang lên trong “Hà thành chính khí ca”, 1, sục sôi tinh thần bảo vệ quốc đô khi Pháp bắn súng cướp thành Hà Nội, hồn thiêng sông núi vẫn tụ lại ở đây. Sau này, chính khíấy vẫn sống mãi với Thủ đô trong những ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp tháng 12 năm 1946. Trung đoàn Thủ đô đã dũng cảm chiến đấu bảo vệ từng góc phố, cầm chân giặc để công nhân và bộ đội chuyển hàng vạn tấn máy móc lên chiến khu Việt Bắc cho cuộc kháng chiến trường kỳ. Hà Nội là lũy hoa và cũng là lũy thép trong những ngày đêm khói lửa với những người tự vệ thành ôm bom ba càng lao vào xe tăng, xe bọc thép của giặc Pháp. Tháng 12 năm 1972, Hà Nội đã làm nên một Điện Biên Phủ trên không, rồng lửa Thăng Long đã vít cổ những pháo đài bay B52, khiến “Pháo đài bay rụng đỏ mặt hồ”. Làm nên và có được những chiến công đó vì đây là nơi lắng hồn sông núi từ trong lịch sử mấy ngàn năm. Ở đây dường như có một sợi dây liên kết sự liên tục về văn hóa của Tống Bình-Đại La-Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội trong khoảng thời gian mấy ngàn năm và nhất là trong khoảng một ngàn năm sau cùng kể từ khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra Đại La để rồi lập nên một Thăng Long văn vật.

Thần tích hai huyện Thọ Xương, Vĩnh Thuận trong khoảng thời gian thời Nguyễn vừa có tính kế nối với các triều đại và thế kỷ trước đó vừa có những đặc điểm riêng của mình do phải chịu những chi phối và chế ước từ chế độ chính trị. Tính kế nối với các triều đại và thế kỷ trước đó mà cụ thể là các triều Lý, Trần, Hồ, Lê. Đó là các vị thần có công năng, quyền uy của thần quốc đô mà không có một địa phương nào trên cả nước có thể có được.

Mất vị trí quốc đô về phương diện hành chính nhưng không làm thay đổi về phương diện tâm tưởng, tâm thức của người dân về thần. Đó cũng là một trong những lý do đã thúc đẩy chúng tôi nghiên cứu thần tích hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận thời Nguyễn qua tư liệu Hán Nôm với hy vọng góp phần nhỏ bé vào việc làm sáng tỏ sự liên tục về văn hóa Thăng Long.

Tải tài liệu

1.

Luận án Thần tích hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận thời Nguyễn qua tư liệu Hán Nôm

.zip
5.63 MB

Có thể bạn quan tâm