Luận án Thị Trường Hiệu Quả Và Việc Sử Dụng Thông Tin Báo Cáo Tài Chính Của Nhà Đầu Tư: Bằng Chứng Thực Nghiệm Trên Thị Rường Chứng Khoán Việt Nam Lưu

Luận án Thị Trường Hiệu Quả Và Việc Sử Dụng Thông Tin Báo Cáo Tài Chính Của Nhà Đầu Tư: Bằng Chứng Thực Nghiệm Trên Thị Rường Chứng Khoán Việt Nam

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt, Tiếng Anh Định dạng: , Lượt xem: 49 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được chúng tôi sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT HỌC THUẬT, LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN

Tên luận án: THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ VÀ VIỆC SỬ DỤNG THÔNG TIN BÁO CÁO TÀI CHÍNH CỦA NHÀ ĐẦU TƯ: BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài Chính – Ngân Hàng             Mã số: 9340201

Nghiên cứu sinh: Nguyễn Trọng Ý                     Khóa: 2016

Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn luận án:

1. TS. VŨ VIỆT QUẢNG

2. TS. NGUYỄN THỊ UYÊN UYÊN

Nội dung ngắn gọn những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận, những luận điểm mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án;

Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng dự báo TSSL tương lai của lợi nhuận bất thường hiện tại, hàm ý về tính hữu dụng của các thông tin sẵn có trên BCTC đối với quyết định đầu tư trên TTCK Việt Nam. Chiến lược đầu tư dựa vào SUE tạo ra TSSL bất thường ở mức 3.99% đối với kỳ hạn nắm giữ 30 ngày và 6.94% đối với kỳ hạn nắm giữ 60 ngày. Khả năng sinh lời của chiến lược này giữ vững ý nghĩa thống kê khi tác giả thay đổi cách đo lường TSSL bất thường. Bên cạnh đó, luận án còn cho thấy độ lớn của hiệu ứng PEAD trên TTCK Việt Nam (một thị trường cận biên) lớn hơn đáng kể so với các TTCK phát triển như Mỹ, Nhật, Anh, Úc.

Mặt khác, theo sự hiểu biết tốt nhất của tôi thì luận án này là một trong những nghiên cứu tiên phong kiểm định hiệu ứng PEAD và các yếu tố tác động lên nó sử dụng một mẫu nghiên cứu thống nhất. Trước đó, Fink (2021) đã sơ lược một số lượng lớn các nghiên cứu về PEAD và phân nhóm cách giải thích cho hiệu ứng này thành i) rủi ro và sự không chắc chắn (Bernard và Thomas, 1989; Ball và cộng sự, 1993; Kimbrough, 2005; Francis và cộng sự 2007; Dargenidou và cộng sự, 2018), ii) rào cản giao dịch (Bhushan, 1994; Mendenhall, 2004; Garfinkel và Sokobin, 2006; Ng và cộng sự, 2008; Chordia và cộng sự, 2009), và iii) kỳ vọng sai lệch của thị trường (Bernard và Thomas, 1990; Bernard và Abarbanell, 1992; Bartov và cộng sự, 2000; Livnat và Mendenhall, 2006; DellaVigna và Pollet, 2009; Hirshleifer và cộng sự, 2009, 2011; Drake và cộng sự, 2012; Hung và cộng sự, 2015; Ben-Rephael và cộng sự, 2017). Luận án này mở rộng công việc của Fink (2021) bằng cách cung cấp các kết quả thực nghiệm dựa trên một mẫu dữ liệu nghiên cứu thống nhất. Điều này gợi ý cho các nghiên cứu tiếp theo trong việc thực hiện một kiểm định bao gồm nhiều yếu tố giải thích cho PEAD để kiểm tra sự cạnh tranh lẫn nhau giữa chúng.

Cụ thể hơn về kết quả kiểm định, luận án rào cản giao dịch, sự hiện diện của cổ đông nội bộ, và sự chú ý của NĐT là những yếu tố tác động đến độ lớn của hiệu ứng PEAD trên TTCK Việt Nam. Thứ nhất, đối với yếu tố rào cản giao dịch, luận án tái khẳng định mối quan hệ cùng chiều giữa chi phí giao dịch và độ lớn PEAD (Bernard và Thomas, 1989; Mendenhall, 2004; Garfinkel và Sokobin, 2005; Chordia và cộng sự, 2009). Chi phí giao dịch sẽ khiến việc khai thác định giá sai trở nên kém hấp dẫn hơn đối với nhà kinh doanh chênh lệch giá và do đó làm chậm quá trình phản ánh thông tin. Ngoài ra, luận án còn đóng góp vào nhánh nghiên cứu này bằng việc kiểm định sự canh tranh giữa các biến đại diện cho yếu tố rào cản giao dịch trong việc giải thích xu hướng của giá cổ phiếu sau khi thông tin lợi nhuận được công bố. Kết quả cho thấy rủi ro hệ thống và khối lượng giao dịch bất thường là hai biến vững trong việc giải thích độ lớn PEAD khi tôi đưa các biến cạnh tranh khác như giá cổ phiếu, khối lượng giao dịch, rủi ro kinh doanh chênh lệch giá, và sự thiếu thanh khoản vào xem xét trong mô hình.

Thứ hai, đối với sự hiện diện của cổ đông nội bộ, luận án chỉ ra mối quan hệ cùng chiều giữa tỷ lệ sở hữu của loại hình nhà đầu tư này và độ lớn của hiệu ứng PEAD. Kết quả này củng cố cho giả thiết “lạm quyền quản lý” được đề cập bởi Hung và cộng sự (2013) cho rằng nhà điều hành doanh nghiệp, với tỷ lệ sở hữu lớn, sẽ có xu hướng gia tăng các hoạt động thao túng lợi nhuận và khiến hàm ý dự báo của thông tin này trở nên khó hiểu hơn đối với cổ đông bên ngoài.

Thứ ba, luận án bổ sung kết quả cho một nhánh nghiên cứu đang nổi lên trong việc sử dụng các công cụ tìm kiếm làm biến đại diện cho sự chú ý của nhà đầu tư nhằm giải thích cho độ lớn của hiệu ứng PEAD (Drake và cộng sự, 2012; Da và cộng sự, 2014; Ben-Rephael và cộng sự, 2017). Kết quả nghiên cứu cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa độ lớn của hiệu ứng PEAD và sự chú ý của nhà đầu tư xung quanh thời điểm công bố thông tin. Kết quả này nhất quán với những gì được tìm thấy trên TTCK Mỹ (Hirshleifer và cộng sự, 2003; 2009; 2011; Dellavigna và cộng sự, 2009; Drake và cộng sự, 2012).

Đối với nhánh nghiên cứu sử dụng thông tin tổng hợp từ các thông tin trên BCTC, luận án cho tìm thấy khả năng sinh lời vượt trội của chiến lược đầu tư dựa vào chỉ số F-Score trên TTCK Việt Nam. Nghiên cứu còn tìm thấy TSSL bất thường của chiến lược đầu tư phòng ngừa tập trung vào những cổ phiếu có môi trường truyền tải thông tin kém như quy mô nhỏ và mệnh giá cổ phiếu thấp. Tuy nhiên, lợi nhuận của chiến lược này có thể gặt hái được khi TSSL bất thường vẫn được tạo ra khi áp dụng đối với nhóm cổ phiếu có khối lượng giao dịch trung bình và cao. Cuối cùng, F-Score vẫn có thể giải thích cho TSSL tương lai của cổ phiếu sau khi kiểm soát các yếu tố đại diện cho rủi ro như quy mô, tỷ số BM, động lượng, và dồn tích.

Một kết quả nổi bật của luận án là chỉ ra mối quan hệ cùng chiều giữa chỉ số F-Score và độ lớn của hiệu ứng PEAD. Điều này hàm ý rằng chỉ số F-Score có thể khiến NĐT gặp nhiều khó khăn hơn trong việc nắm bắt hàm ý dự báo của lợi nhuận bất thường hiện tại và do đó dẫn đến phản ứng của giá cổ phiếu sau khi CBTT trở nên lớn hơn. Nghiên cứu này đã bổ sung thêm hai cơ chế tiềm năng (bên cạnh cơ chế sự không chắc chắn về mặt thông tin được đề xuất bởi Turtle và cộng sự, 2017) giải thích cho mối liên hệ giữa chỉ số F-Score và độ lớn của hiệu ứng PEAD bao gồm i) vai trò của nhu cầu tổ chức (Choi và Sias, 2012) và ii) mối liên hệ giữa lợi nhuận hiện tại và lợi nhuận ở các quý liền kề (Foster, 1977, Griffin, 1977; Brown và Rozeff, 1979).

Tải tài liệu

1.

Luận án Thị Trường Hiệu Quả Và Việc Sử Dụng Thông Tin Báo Cáo Tài Chính Của Nhà Đầu Tư: Bằng Chứng Thực Nghiệm Trên Thị Rường Chứng Khoán Việt Nam

.zip
0.00 B

Có thể bạn quan tâm