NHỮNG KẾT QUẢ MỚI CỦA ĐỀ TÀI
* Thực trạng tật khúc xạ ở học sinh một số trường trung học cơ sở tại nội thành thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên
Tỉ lệ tật khúc xạ (TKX) chung ở học sinh 4 trường trung học cơ sở (THCS) nghiên cứu là 34,9%. Tỉ lệ TKX ở nữ (38,0%) cao hơn nam (31,6%). Tỉ lệ TKX đã đeo kính từ trước là 28,8% và tỉ lệ TKX tích lũy đến thời điểm khám là 34,9%. Tỉ lệ TKX ở mắt phải chiếm 33,2%, cao hơn mắt trái (32,0%). Độ kính dưới – 0,5D (cận thị) có tỉ lệ 42,7%, độ kính loạn thị trên 1D là 8,8% và độ kính viễn thị trên +3D là 0,4%.
* Các yếu tố liên quan đến tật khúc xạ ở lứa tuổi học sinh
– Kiến thức, thực hành của học sinh về TKX
Tỉ lệ học sinh đi khám mắt định kỳ 6 tháng một lần là 13,2%. Tỉ lệ học sinh học thêm là 93,7%, xem tivi ≥ 2 giờ/ngày 38,2%; chơi điện tử ≥ 2 giờ/ngày 21,8% và tham gia hoạt động ngoài trời 67,3%. Tỉ lệ học sinh có góc học tập gần cửa sổ 67,2%; sử dụng bàn ghế có hiệu số phù hợp 36,3%, sử dụng đèn bàn chống cận thị 73,5%. Kiến thức của học sinh về TKX chưa đầy đủ: tỉ lệ không biết khái niệm TKX 80,1%; không biết yếu tố nguy cơ gây TKX 69,2%.
– Kiến thức của phụ huynh học sinh về TKX ở lứa tuổi học sinh
Kiến thức về TKX của phụ huynh chưa đầy đủ: tỉ lệ phụ huynh không biết khái niệm TKX 14,3%; tỉ lệ cho rằng TKX ở học sinh không cần đeo kính 10,6%.
– Các yếu tố liên quan đến TKX ở lứa tuổi học sinh
Có mối liên quan giữa: khối lớp học cao, giới nữ, học sinh đi học thêm; học sinh chơi điện tử ≥ 2 giờ/ngày; xem tivi ≥ 2 giờ/ngày; không tham gia hoạt động ngoài trời, sử dụng góc học tập ở nhà với hiệu số bàn ghế không phù hợp; không sử dụng đèn chống cận thị; tư thế ngồi học không đúng; khám mắt định kỳ; kiến thức của học sinh về TKX không tốt và kiến thức của phụ huynh về TKX không tốt với TKX (p < 0,05).
* Thực trạng quản lý TKX cho học sinh THCS
Hoạt động phòng TKX tại trường học còn yếu. Phụ huynh học sinh không quan tâm tới phòng TKX cho học sinh.
* Hiệu quả mô hình ứng dụng phần mềm quản lý TKX
Phần mềm quản lý TKX phù hợp, tính tương tác cao, dễ sử dụng, đảm bảo tính duy trì, tính bền vững. Sau 18 tháng can thiệp, kiến thức về phòng TKX của học sinh và của phụ huynh trường can thiệp tăng lên có ý nghĩa (p < 0,05). Tỉ lệ học sinh giúp việc gia đình, tham gia hoạt động ngoài trời tăng có ý nghĩa (p < 0,05); chơi điện tử, xem tivi giảm với p < 0,05. Tỉ lệ thay đổi góc học tập gần cửa sổ, bàn ghế phù hợp và dùng đèn chống cận thị tăng có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Tỉ lệ TKX ở trường can thiệp giảm từ 30,4% xuống còn 22,9% (p > 0,05); tỉ lệ TKX ở trường chứng tăng từ 32% lên 38,2% (p > 0,05) với hiệu quả can thiệp là 218,6%.