ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) là những chăm sóc y tế cơ bản thiết yếu dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn cũng như những phương pháp được xã hội chấp nhận và đến với mọi người, mọi gia đình thông qua sự tham gia đầy đủ của cộng đồng với mức chi phí mà cộng đồng và Nhà nước có thể trang trải được, có thể duy trì được ở bất cứ mức phát triển nào với tinh thần tự lo liệu, tự quyết định [44], [141], [138], [56]. CSSKBĐ là một cách tiếp cận sức khỏe vượt ra ngoài phạm vi hệ thống chăm sóc sức khỏe truyền thống để tập trung vào công bằng sức khỏe – tạo điều kiện xây dựng chính sách xã hội.
Tháng 10 năm 2018, các nhà lãnh đạo y tế thế giới, các tổ chức quốc tế, xã hội dân sự và các bên liên quan khác gặp nhau tại Astana, Kazakhstan kỷ niệm 40 năm Tuyên bố 1978, đánh giá về những thay đổi của thế giới, khẳng định các tính năng của CSSKBĐ cho phép hệ thống y tế thích ứng và phản ứng với sự thay đổi nhanh chóng, phức tạp của thế giới. CSSKBĐ cũng được chứng minh đạt hiệu quả cao trong giải quyết các nguyên nhân chính, yếu tố rủi ro cho sức khỏe, cũng như để xửlý những thách thức mới nổi có thể đe dọa sức khỏe trong tương lai. Một lần nữa khẳng định mục tiêu phát triển bền vững liên quan đến sức khỏe chỉ có thể đạt được dựa vào CSSKBĐ [135]. Với vai trò quan trọng như vậy nên để thực hiện tốt CSSKBĐ các quốc gia phải đáp ứng nhiều điều kiện, trong đó con người giữ vai trò hàng đầu. Ở Việt Nam CSSKBĐ gắn liền với y tế cơ sở và đội ngũ nhân viên y tế tại đây [21], vì vậy để làm tốt công tác CSSKBĐ, trước hết nhân viên y tế cơ sở cần hiểu rõ bản chất của CSSKBĐ. Theo Trần Ngọc Hữu có 19,4% số bác sỹ làm việc tại trạm y tế xã có kiến thức về những nội dung và 3,2% có kiến thức về nguyên tắc CSSKBĐ [48]. Về thực hành tư vấn chăm sóc sức khỏe (CSSK) là hoạt động xuyên suốt và giữ vai trò quan trọng trong tất cả các nội dung của CSSKBĐ. Theo Trần Hữu Lộc năm 2016 tư vấn CSSK chiếm 86,67% các hoạt động TTGDSK [55], kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Liên chỉ có 23,5% cán bộ y tế thực hiện chào hỏi, 9,2% khuyên bảo giải thích, 16,1% hỏi nguyên nhân vấn đề [53]. Trong chăm sóc trẻ sơ sinh của nhân viên y tế tuyến cơ sở theo Tạ Như Đính có tới 46,6% ở mức kém và 41,7% mức trung bình [38]. Những hạn chế nêu trên có phải là thực trạng tại tuyển YTCS hay không? Nếu có nguyên nhân do đâu, giải pháp nào cho tình trạng này là vấn đề cần được đánh giá một cách nghiêm túc để từ đó có giải pháp khắc phục [134].