Luận án Tốc độ điều chỉnh cấu trúc vốn mục tiêu của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam Lưu VIP

Luận án Tốc độ điều chỉnh cấu trúc vốn mục tiêu của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam

Danh mục: , Người đăng: Lâm Gia Mộc Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt, Tiếng Anh Định dạng: , Lượt xem: 9 lượt Lượt tải: 0 lượt
Tài liệu, tư liệu này được chúng tôi sưu tầm từ nhiều nguồn và được chia sẻ với mục đích tham khảo, các bạn đọc nghiên cứu và muốn trích lục lại nội dung xin hãy liên hệ Tác giả, bản quyền và nội dung tài liệu thuộc về Tác Giả & Cơ sở Giáo dục, Xin cảm ơn !

Nội dung

TÓM TẮT NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN ÁN TIẾN SĨ

Tên luận án: Tốc độ điều chỉnh cấu trúc vốn mục tiêu của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 9.34.02.01

Nghiên cứu sinh: Nguyễn Văn Điệp

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TSKH. Nguyễn Ngọc Thạch

Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM

Luận án này nhằm phân tích tốc độ điều chỉnh cấu trúc vốn hướng về mức mụ tiêu của các công ty phi tài chính niêm yết tại Việt Nam từ đó, đề xuất hàm ý chính sách nhằm giúp các doanh nghiệp này nhanh chóng đạt được cấu trúc vốn mục tiêu. Luận án sử dụng dữ liệu của 654 doanh nghiệp phi tài chính được niêm yết trên HoSE và HNX trong giai đoạn từ 2010 đến 2021 và phương pháp hồi quy Bayes nhằm cung cấp bằng chứng thực nghiệm về tốc độ điều chỉnh cấu trúc vốn mục tiêu của các doanh nghiệp niêm yết. Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đầu tiên, luận án xác định tốc độ điều chỉnh cấu trúc vốn tổng quát của các doanh nghiệp. Sau đó, luận án đi vào phân tích ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tài chính chuỗi cung ứng và tín dụng thương mại đến tốc độ điều chỉnh theo cấu trúc vốn mục tiêu của các doanh nghiệp. Dựa trên kết quả nghiên cứu, luận án đề xuất hàm ý quản trị có liên quan nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhanh chóng đạt được cấu trúc vốn mục tiêu.

Từ những nội dung nghiên cứu nêu trên, luận án có các điểm mới như sau:

Đầu tiên, luận án áp dụng hồi quy tuyến tỉnh Bayes và tiết lộ những hiểu biết mới về mối quan hệ giữa SOA và mức độ đòn bẩy. Trái ngược với hầu hết các nghiên cứu tập trung vào hành vi của chuyển động đòn bẩy sổ sách, tác giả của luận án đã xem xét cả hai loại đòn bẩy bao gồm đòn bẩy số sách và đòn bẩy thị trường. Cụ thể, sử dụng một mô hình động, nghiên cứu này phát hiện ra rằng SOA (dựa trên đòn bẩy số sách và thị trường) của các công ty Việt Nam là 9,2% đến 12,5%/năm. Tốc độ hội tụ này cho thấy rằng các công ty phi tài chính ở Việt Nam có SOA khá thấp. SOA này thấp hơn kết quả trung bình được ghi nhận bởi các nghiên cứu được thực hiện trước đó ở Việt Nam.

Thứ hai, do những tác động kinh tế chưa từng có của Covid-19 nên luận án này cũng đóng góp vào tài liệu về tác động của các đợt khủng hoảng đối với hành vi của doanh nghiệp bằng cách khám phá tác động của khủng hoảng Covid-19 và việc điều chỉnh cấu trúc vốn của các công ty. Các phát hiện cho thấy SOA đòn bẩy trong cuộc khủng hoảng Covid-19 nhanh hơn so với giai đoạn không có đại dịch này. Kết quả này đã hỗ trợ kết quả thực nghiệm của Vo et al. (2022), những người đã phát hiện ra rằng việc điều chỉnh đòn bẩy mục tiêu của các công ty diễn ra nhanh hơn trong giai đoạn bùng phát đại dịch. Những kết quả này có thể cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về quản lý cấu trúc vốn trong thời kỳ hỗn loạn và hành vi điều chỉnh tỷ lệ nợ của các công ty.

Thứ ba, nghiên cứu này góp phần làm phong phú thêm các tài liệu đang phát triển về SCF. SCF là sự kết hợp giữa tài chính và chuỗi cung ứng để giải quyết một cách sáng tạo các vấn đề tài chính dựa trên chuỗi cung ứng. Là một dạng kỹ thuật hệ thống phức tạp, SCF đã thu hút được sự đóng góp chuyên sâu của các nhà nghiên cứu từ cả lĩnh vực tài chính và quản lý để giải quyết các dịch vụ tài chính trong chuỗi cung ứng được quản lý và tích hợp hiệu quả, đồng thời đạt được chi phí giao dịch thấp hơn, phân bổ nguồn lực tối ưu và phát triển bền vững. Các nghiên cứu SCF hiện tại lần lượt tập trung vào tài chính và chuỗi cung ứng. Căng thẳng tài chính, từ góc độ của các tổ chức tài chính, phân tích sự đóng góp của SCF như một giải pháp tài trợ ngắn hạn nhằm giảm rủi ro tín dụng của các khoản vay ngân hàng, cải thiện tính minh bạch của dòng tiền hoặc hiệu quả tài chính của những người tham gia SCF và nâng cao tính linh hoạt trong các khoản thanh toán cho người mua. Sự căng thẳng của chuỗi cung ứng, từ góc độ quản lý chuỗi cung ứng, phân tích sự hợp tác của các thành viên và sự tích hợp của logistics, thông tin và dòng tiền, nhằm tối ưu hóa hàng tồn kho và hiệu quả hoạt động của chuỗi cung ứng. Mặc dù một số nghiên cứu thừa nhận giá trị tài chính và giá trị chuỗi cung ứng của SCF, nhưng chúng chủ yếu chứng minh hệ quả kinh tế của SCF từ quan điểm của các ngân hàng với tư cách là nhà cung cấp quỹ và các doanh nghiệp với tư cách là người sử dụng nguồn quỹ này. Thiếu bằng chứng thực nghiệm xem xét tác động của SCF đối với việc điều chỉnh cơ cấu vốn của công ty. Việc khám phá như vậy có thể mở rộng ranh giới của cả hai loại tài liệu SCF. Do đó, nghiên cứu của này có thể cung cấp bằng chứng có ý nghĩa về tác động của SCF và mở rộng ranh giới tài liệu về cả căng thẳng tài chính và chuỗi cung ứng với bằng chứng tài chính ở cấp độ công ty. Là một sự đổi mới tài chính quan trọng trong những năm gần đây, SCF đã mang đến cho các công ty những lựa chọn chiến lược trong việc điều chỉnh cơ cấu vốn. Các công ty cốt lõi trong chuỗi cung ứng có thể chủ động cam kết với SCF với sự tập trung tốt hơn vào các mục tiêu dài hạn. Các tài liệu hiện tại cung cấp rất ít bằng chứng về sự đổi mới tài chính gần đây và cơ cấu vốn của các công ty. Kết quả của nghiên cứu này làm sáng tỏ mối liên hệ mới đang nổi lên giữa SCF và điều chỉnh cơ cấu vốn công ty tại thị trường Việt Nam. Cụ thể, nghiên cứu này cho thấy các công ty có cam kết cao với SCF có tốc độ hội tụ về tỷ lệ nợ mục tiêu cao hơn so với các công ty có cam kết thấp hoặc không tham gia cam kết với SCF.

Thứ tư, nghiên cứu này cũng có thể đóng góp vào các cuộc thảo luận về quản lý bền vững chuỗi cung ứng. Định nghĩa rộng về tính bền vững bao gồm các khía cạnh môi trường, tài chính hoặc kinh tế và xã hội (A. H. Nguyen, Hoang, Ngo, Nguyen, & Nguyen, 2022). Các nghiên cứu tính bền vững hiện tại về chuỗi cung ứng đã khám phá sự phát triển của các sản phẩm xanh, cung cấp môi trường thân thiện với nhân viên và cơ sở giáo dục cũng như trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Một số người khác khám phá các yếu tố ảnh hưởng đến tính bền vững của chuỗi cung ứng và quản trị chuỗi cung ứng. chẳng hạn như sự hỗ trợ hoặc cam kết của ban quản lý, sự tham gia của nhân viên, sự căng thẳng của khách hàng, sự phối hợp của các nhà cung cấp và các bên liên quan thuộc tổ chức xã hội. Ít nhất ở một mức độ nào đó, các cuộc thảo luận về tính bền vững liên quan đến chuỗi cung ứng đã bỏ qua các yếu tố tài chính, vốn là tiền đề quan trọng để đảm bảo hoạt động bền vững của chuỗi cung ứng. Nghiên cứu về SCF này có thể mở rộng các cuộc thảo luận về quản trị chuỗi cung ứng bền vững ở khía cạnh tài chính. Trong những thập kỷ gần đây, các công ty Việt Nam đóng vai trò ngày càng quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. SCF có thể là một cách có ý nghĩa để nâng cao sức mạnh tài chính của doanh nghiệp, tối ưu hóa dòng tiền, nâng cao lợi thế cạnh tranh, cung cấp nguồn lực để đạt được những đổi mới xanh tốt hơn, môi trường làm việc, bảo vệ môi trường và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Do đó, nghiên cứu này có thể cung cấp một quan điểm mới cho các cuộc thảo luận về chuỗi cung ứng bền vững. Xét đến việc đại dịch Covid-19 làm trầm trọng thêm nguy cơ gián đoạn chuỗi cung ứng và thậm chíphá sản các doanh nghiệp (de Nicola, Timmis, & Akhlaque, 2020), việc xem xét tính ổn định của chuỗi cung ứng, trong đó SCF nâng cao năng lực của doanh nghiệp để đối phó với các sự cố bất ngờ, quản lý bền vững chuỗi cung ứng trong điều kiện không chắc chắn, đồng thời duy trì và xây dựng lại các quản trị chuỗi cung ứng bền vững toàn cầu là rất có giá trị.

Thứ năm, tín dụng thương mại, cụ thể khoản phải trả thương mại, là một công cụ tài chính giữa các công ty được sử dụng trong ngắn hạn vì những động cơ giao dịch, mặc dù có một số bằng chứng cho thấy rằng nó cũng được sử dụng trong dài hạn cho các mục đích tài trợ (Ge & Qiu, 2007). Nghiên cứu này cũng làm sáng tỏ mối liên hệ giữa khoản phải trả thương mại và điều chỉnh cơ cấu vốn của các công ty. Cụ thể, nghiên cứu này cho thấy các công ty có sử dụng tín dụng thương mại cao (tỷ lệ khoản phải trả thương mại cao) sẽ có tốc độ hội tụ về tỷ lệ nợ mục tiêu cao hơn so với các công ty sửdụng ít sử dụng tín dụng thương mại. Đồng thời, kết quả nghiên cứu còn tìm thấy bằng chứng cho thấy hiệu ứng thay thế tín dụng thương mại, trong đó tín dụng thương mại được sử dụng khi chi phí phá sản biên đối với các doanh nghiệp sử dụng quá nhiều đòn bẩy tạo ra động cơ tốt cho những công ty chuyển sang sử dụng tín dụng thương mại.

Ngoài mục đích truyền thống là giao dịch và tài trợ, tín dụng thương mại còn đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh cơ cấu vốn của các công ty.

Thứ sáu, kết quả của luận án cho thấy có sự bất cân xứng về tác động của SCF, tín dụng thương mại (khoản phải trả thương mại) đến SOA. Cụ thể, những công ty có đòn bẩy trên mức mục tiêu thì SCF và tín dụng thương mại sẽ đẩy nhanh quá trình điều chỉnh cấu trúc vốn đến mức mục tiêu hơn là các công ty có đòn bẩy dưới mức mục tiêu. Tính không đồng nhất trong việc điều chỉnh cấu trúc vốn của các công ty ở các cấp độ SCF và tín dụng thương mại (khoản phải trả thương mại) khác nhau và ở các loại mức đồn bẩy khác nhau chắc chắn sẽ mở rộng kiến thức của chúng ta về cách các nhà quản lý của công ty tiết kiệm chi phí phát hành chứng khoán và đi chệch hướng hoặc hướng tới cấu trúc vốn mục tiêu của họ cũng như tối ưu hóa lợi ích của việc duy trì mục tiêu đòn bẩy của họ.

Tải tài liệu

1.

Luận án Tốc độ điều chỉnh cấu trúc vốn mục tiêu của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam

.zip
7.49 MB

Có thể bạn quan tâm