TRANG THÔNG TIN VỀ NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VỀ MẶT HỌC THUẬT, LÝ LUẬN CỦA LUẬN ÁN
Tên luận án: Vai trò trung gian của vốn tâm lý trong mối quan hệ giữa thông tin kế toán quản trị và thành quả của nhà quản lý: trường hợp nghiên cứu tại Việt Nam
Chuyên ngành: Kế toán Mã số: 9340301
Nghiên cứu sinh: Nguyễn Hữu Bình Khóa: K2016
Cơ sở đào tạo: Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn luận án:
1. TS. Nguyễn Bích Liên
2. PGS. TS. Nguyễn Phong Nguyên
Nội dung ngắn gọn những đóng góp mới về mặt học thuật, lý luận, những luận điểm mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát của luận án:
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm kiểm tra ảnh hưởng trực tiếp và ảnh hưởng gián tiếp thông qua vai trò trung gian của vốn tâm lý, của thông tin kế toán quản trị đối với thành quả của nhà quản lý trong doanh nghiệp. Đồng thời, nghiên cứu cũng làm rõ mối quan hệ giữa các khía cạnh của thành quả nhà quản lý – cụ thể là mối quan hệ giữa thành quả công việc (đại diện cho khía cạnh hành vi) và sự hữu hiệu (đại diện cho khía cạnh kết quả). Với những kết quả nghiên cứu đạt được, luận án đã có những đóng góp về lý thuyết và thực tiễn quản trị, cụ thể như sau:
1. Đóng góp về lý thuyết
Thứ nhất, nghiên cứu này lần đầu tiếp cận đo lường thành quả của nhà quản lý ở hai khía cạnh hành vi và kết quả. Trong đó, ở khía cạnh hành vi, thành quả công việc của nhà quản lý được nghiên cứu ở cả hai thành phần gồm thành quả nhiệm vụ và thành quả theo ngữ cảnh. Kết quả nghiên cứu khẳng định sự phù hợp của cách tiếp cận và mô hình đo lường khái niệm thành quả của nhà quản lý. Trên cơ sở đó, kết quả bổ sung vào hệ thống lý thuyết về đo lường thành quả cá nhân nói chung và thành quả của nhà quản lý nói riêng, tạo điều kiện cho việc áp dụng thang đo trong các nghiên cứu liên quan trong tương lai.
Thứ hai, mô hình đo lường các khái niệm trong luận án cũng lần đầu được đánh giá độ tin cậy và giá trị thang đo cho cả thành phần thấp và bậc cao theo đề xuất của Sarstedt và cộng sự (2019). Kết quả nghiên cứu góp phần tạo tiền đề cho các nghiên cứu trong tương lai trong việc vận dụng đánh giá mô hình đo lường của các khái niệm bậc cao khi sử dụng kỹ thuật phân tích PLS-SEM, nhằm đảm bảo đánh giá mô hình đo lường một cách đầy đủ.
Thứ ba, kết quả có được từ quá trình kiểm định mô hình cấu trúc của nghiên cứu này bổ sung vào cơ sở lý thuyết trong các nghiên cứu kế toán quản trị về các yếu tố trung gian trong mối quan hệ giữa thông tin kế toán quản trị và thành quả của nhà quản lý – một chủ đề còn ít được quan tâm trong các nghiên cứu trước đây. Cụ thể, kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ cơ chế ảnh hưởng của thông tin kế toán quản trị đến thành quả của nhà quản lý (bao gồm thành quả công việc và sự hữu hiệu của nhà quản lý). Kết quả này hàm ý rằng, thông tin chỉ có tác động tích cực đến thành quả của cá nhân khi thông tin được sử dụng cho quá trình thực hiện công việc của họ; mức độ sử dụng thông tin của cá nhân sẽ tác động gián tiếp thông qua cơ chế truyền dẫn của các biến trung gian.
Thứ tư, kết quả nghiên cứu đã chứng minh bằng thực nghiệm quan điểm của lý thuyết thành quả công việc của Blumberg và Pringle (1982) về vai trò của các yếu tố thuộc về môi trường (cơ hội) đối với thành quả cá nhân thông qua tác động của nó đến các yếu tố về năng lực tâm lý (động lực). Qua đó củng cố thêm quan điểm của lý thuyết về các yếu tố hình thành nên thành quả cá nhân. Kết quả nghiên cứu của luận án cũng góp phần làm rõ hơn quan điểm của lý thuyết truyền thông về quá trình chuyển hóa thông tin thành hành vi của người sử dụng thông tin bằng việc cung cấp bằng chứng về cơ chế của quá trình chuyển hóa. Cụ thể, quá trình sử dụng thông tin sẽ làm thay đổi trạng thái tâm lý tích cực (vốn tâm lý) của người sử dụng, sự thay đổi trong vốn tâm lý đến lượt nó sẽ dẫn đến những thay đổi trong hành vi của người dùng thông tin.
Thứ năm, kết quả kiểm định tác động trực tiếp của thông tin kế toán quản trị đến vốn tâm lý đã bổ sung vào cơ sở lý thuyết trong những nghiên cứu về các yếu tố tác động đến vốn tâm lý của cá nhân. Kết quả nghiên cứu này hàm ý rằng, trong bối cảnh nhà quản lý, thông tin nói chung và thông tin kế toán quản trị nói riêng là một yếu tố thuộc về môi trường mang tính hỗ trợ trong tổ chức có ảnh hưởng tích cực đến vốn tâm lý của người sử dụng thông tin (các nhà quản lý).
Thứ sáu, kết quả kiểm định giả thuyết về ảnh hưởng của thành quả công việc đến sự hữu hiệu của nhà quản lý đã chứng minh quan điểm của Roe (1999) và Sonnentag (2003) về mối quan hệ giữa thành quả ở khía cạnh hành vi và thành quả về mặt kết quả của thành quả cá nhân. Kết quả này hàm ý rằng, thành quả hành vi là một trong những yếu tố góp phần vào việc nâng cao thành quả kết quả. Do vậy, các nghiên cứu trong tương lai nên tiếp cận cả hai khía cạnh hành vi và kết quả để có thể đánh giá đầy đủ về thành quả cá nhân, cũng như chứng minh được ý nghĩa của thành quả hành vi trong việc đem lại những kết quả cụ thể.
Thứ bảy, nghiên cứu cũng bổ sung vào cơ sở lý thuyết trong các nghiên cứu về khái niệm vốn tâm lý, cũng như nghiên cứu về mối quan hệ giữa vốn tâm lý và thành quả cá nhân, khi kết quả nghiên cứu đã chứng minh ảnh hưởng tích cực của vốn tâm lý đến sự hữu hiệu của nhà quản lý thông qua vai trò truyền dẫn của thành quả công việc của nhà quản lý. Kết quả này hàm ý rằng, các trạng thái tâm lý tích cực của mỗi cá nhân không chỉ có ảnh hưởng tích cực đến thành quả hành vi, mà còn tác động trực tiếp và gián tiếp đến thành quả kết quả của cá nhân.
2. Đóng góp về thực tiễn quản trị
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu của luận án đã góp phần làm rõ cơ chế ảnh hưởng của việc sử dụng thông tin kế toán quản trị đến thành quả của các nhà quản lý, qua đó giúp cho các tổ chức cũng như các nhà quản lý làm việc trong tổ chức hiểu rõ hơn về vai trò và tầm quan trọng của thông tin kế toán quản trị trong việc hỗ trợ quản lý, điều hành doanh nghiệp. Từ đó tạo cơ sở để quản trị và vận dụng thông tin kế toán một cách hữu hiệu và hiệu quả hơn. Cụ thể, các tổ chức cần quan tâm đến việc phát triển và vận hành hệ thống thông tin kế toán quản trị nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng tốt hơn cho nhà quản lý. Bên cạnh đó, các tổ chức cũng cần quan tâm đến việc ứng dụng công nghệ để hỗ trợ khai thác thông tin hiệu quả hơn.
Thứ hai, các kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, trong môi trường kinh doanh tại Việt Nam, vốn tâm lý là một trong những nhân tố quan trọng góp phần vào việc nâng cao thành quả của nhà quản lý. Trên cơ sở đó, các tổ chức có thể cân nhắc việc xây dựng các chương trình huấn luyện để nâng cao cấp độ vốn tâm lý tổng thể của các nhà quản lý, hoặc có thể áp dụng những mô hình huấn luyện ngắn hạn, ví dụ như mô hình phát triển vốn tâm lý PCI được phát triển bởi Luthans và cộng sự (2006a). Ngoài ra, các tổ chức cũng cần quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu sử dụng thông tin kế toán quản trị ngày càng tốt hơn cho các nhà quản lý như một cách để góp phần nâng cao vốn tâm lý của đội ngũ lãnh đạo.
Thứ ba, kết quả đề xuất và kiểm định mô hình đo lường thành quả của nhà quản lý trong luận án đã đóng góp vào thực tiễn kinh doanh một cách tiếp cận khác khi đánh giá thành quả của nhà quản lý, trên cơ sở quan điểm rằng thành quả của nhà quản lý có thể được đánh giá qua quá trình thực hiện công việc quản lý và qua những kết quả đạt được từ quá trình đó. Theo đó, các tổ chức có thể thực hiện đánh giá thành quả của nhà quản lý ở cả khía cạnh hành vi – nhằm đánh giá mức độ thực hiện công việc của nhà quản lý hướng đến việc đạt được mục tiêu của tổ chức, và khía cạnh kết quả – nhằm đánh giá những kết quả đạt được từ những công việc/hoạt động quản lý.