THÔNG TIN LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐƯA LÊN MẠNG
Họ và tên nghiên cứu sinh: Nguyễn Thanh Hà
Tên đề tài luận án: Xây dựng tiêu chuẩn chất lượng và đánh giá khả năng phân bố sinh học của paclitaxel từ chế phẩm thuốc tiêm sản xuất tại Việt Nam.
Chuyên ngành: Kiểm nghiệm thuốc và độc chất
Mã số: 62720410
Người hướng dẫn: 1. PGS.TS Lê Minh Trí; 2. PGS.TS Nguyễn Thiện Hải
Tên cơ sở đào tạo: Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh
TÓM TẮT NHỮNG KẾT LUẬN MỚI CỦA LUẬN ÁN
Nghiên cứu được thực hiện bao gồm xây dựng công thức và quy trình điều chế thuốc tiêm truyền chứa PTX với hai dạng bào chế là dung dịch đậm đặc và bột đông khô; Xây dựng tiêu chuẩn chất lượng và đánh giá độ ổn định của hai chế phẩm nghiên cứu; Đánh giá thông số dược động và phân bố sinh học trong một số mô động vật của hai chế phẩm nghiên cứu so với thuốc đối chứng.
Về bào chế: Đã xây dựng công thức và quy trình bào chế bột đông khô pha tiêm truyền chứa PTX qui mô 50 lọ cho mỗi lô. Quy trình đông khô với thời gian đông lạnh 48 giờ, áp suất giai đoạn làm khô sơ cấp và thứ cấp là 0,0108 mbar và 0,0026 mbar. Công thức và qui trình bào chế bột đông khô pha tiêm truyền là sản phẩm nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam về mặt bào chế. Qui trình điều chế cho thấy có sự ổn định, có triển vọng áp dụng vào thực tiễn.
Về kiểm nghiệm: Đã xây dựng tiêu chuẩn chất lượng chế phẩm bột đông khô PTX với điều kiện sắc ký định lượng tạp theo USP và BP với một số thay đổi về cột, điều kiện nhiệt độ buồng tiêm, nhiệt độ cột và chương trình pha động để phù hợp với điều kiện của phòng thí nghiệm. Quy trình đã được thẩm định đạt các yêu cầu theo USP và ICH hiện hành. Quy trình định lượng PTX trong dịch chiết từ huyết tương và dịch mô động vật thí nghiệm bằng phương pháp HPLC được xây dựng và thẩm định, các thông số thẩm định đầy đủ với yêu cầu của một quy trình thẩm định phân tích thuốc trong huyết tương người tình nguyện (quy định FDA và EMA). Qua quá trình thực nghiệm khảo sát nồng độ PTX từ thuốc đối chứng và thuốc thử trong huyết tương thỏ, kết quả cho thấy hai dạng bào chế dung dịch đậm đặc và bột đông khô có khác biệt so với thuốc đối chứng về thông số dược động học. So với thuốc đối chứng AUC0->6, AUC0->0, 1/2 lần lượt là 14,71 µg.giờ/mL; 15,70 µg.giờ/mL; 1,15 giờ, dung dịch đậm đặc có các thông số cao hơn (16,33 µg.giờ/mL; 18,38 µg.giờ/mL; 1,36 giờ) trong khi dạng bột đông khô có các thông số này thấp hơn (5,60 µg.giờ/mL; 5,55 µg.giờ/mL; 0,87 giờ) ở ngưỡng p = 0,05. Trên mô thỏ, tỷ số AUC0,5-sh chế phẩm thử / AUC0,5-sh thuốc đối chứng ở các mô gan, thận, phổi, buồng trứng và tổng các mô lần lượt là 2,28; 2,62; 1,71; 0,89 và 2,01. Trên mô chuột, AUCo-sh cả 2 chế phẩm ở gan là cao nhất (thuốc đối chứng: 131,9 µg.h/g; dung dịch đậm đặc: 155, 62 µg.h/g) tiếp sau đó là thận (49,05 µg.h/g và 50,12 µg.h/g) và thấp nhất là phổi (31,65 µg.h/g và 35,46 µg.h/g). Mức độ PTX phân bố vào các mô lần lượt gan > thận > phổi. AUC0-sh chế phẩm thử ở gan và phổi cao hơn thuốc đối chứng có ý nghĩa. Các kết quả nghiên cứu đã cung cấp dữ liệu về đặc tính dược động, tạo tiền đề cho nghiên cứu dược động và lâm sàng trên người.